Triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục và định hướng phát triển nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới

CT&PT - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã để lại cho chúng ta một hệ thống tư tưởng toàn diện và sâu sắc về giáo dục và phát triển con người. Cho đến nay, triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục vẫn vẹn nguyên giá trị, soi sáng định hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên phát triển mới, nhằm thực hiện khát vọng vươn mình trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI.

1. Triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục

Xuyên suốt sự nghiệp cách mạng, nhất là từ khi nước ta giành được độc lập sau Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao giáo dục, coi đó là một mặt trận quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu cách mạng: “Văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”1. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Người không quên nhắc đến việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”2

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu của nền giáo dục cách mạng nhằm tạo ra nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Khi đến thăm lớp học chính trị của các giáo viên cấp I và cấp II toàn miền Bắc, ngày 13/9/1958, Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”3. Đây là luận điểm phản ánh rõ triết lý của Người về mục tiêu giáo dục của một nước độc lập, để kiến thiết lại đất nước rất cần đến nhân tài và để làm được điều đó, tất yếu phải thực hiện mục tiêu giáo dục.

Người cho rằng, cách mạng muốn thắng lợi phải hội tụ và phát huy nhiều nhân tố, nhất là nhân tố con người, mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ. Khi nói về vai trò của cán bộ với cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”4. Muốn có cán bộ, nhất là cán bộ tốt, phải thông qua giáo dục, huấn luyện theo yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng. Theo Người, “trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”5. Thông qua giáo dục để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có đạo đức cách mạng làm nền tảng. Người nhấn mạnh: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”6. Trong điều kiện nước nhà đang khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, rất cần cán bộ, nhưng cán bộ ta còn thiếu, vì vậy, ngoài coi trọng đạo đức, Người cho rằng, chúng ta phải đào tạo cán bộ lấy văn hóa làm gốc. Nói cách khác, giáo dục phải nhằm đào tạo ra cán bộ có cả tài năng và đạo đức: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức”7.

Mặt khác, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu của giáo dục là giáo dục nhân văn. Người quan niệm, giáo dục nhân văn là giáo dục hướng tới mục tiêu tổng quát, nhất là “giáo dục làm người”. Đề cập điều này, khi đến thăm Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, tháng 9/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết vào cuốn sổ vàng của nhà trường: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ”8. Giáo dục làm người là nội dung rất rộng và chỉ có thông qua giáo dục thì mới đạt hiệu quả, đó chính là triết lý giáo dục thấm đượm tính nhân văn. Người chỉ rõ, giáo dục làm người là phải dạy cho người học nhận thức đúng về các phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam trong cuộc sống, sinh hoạt, ứng xử… Đây chính là những giá trị mang tính nền tảng mà một nền giáo dục tiến bộ hướng tới. 

Ngoài ra, mục tiêu của giáo dục còn là phát triển năng lực phù hợp với đối tượng người học. Người nhấn mạnh: “Thời trước, giáo dục là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ăn... Bây giờ nhiệm vụ giáo dục khác trước... Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người cán bộ mới”9. Theo đó, Người xác định nhiệm vụ của từng cấp học: Đối với đại học: cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiến tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta để thiết thực giúp ích cho nước nhà. Đối với trung học: cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu xây dựng đất nước. Đối với tiểu học: cần giáo dục các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công.

Bên cạnh các nội dung trên, Người còn quan tâm xây dựng nền giáo dục mới hướng đến mục tiêu đào tạo ra công dân hữu ích phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và được phát triển năng lực sẵn có. Trong thư gửi cho các em học sinh nhân ngày khai giảng năm học mới (tháng 9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Từ giờ phút này giở đi các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam… một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”10. Theo đó, người công dân hữu ích là những người sống theo pháp luật, thực hiện các nghĩa vụ của người công dân, rộng hơn đó chính là sống có trách nhiệm (chia sẻ, đóng góp, cống hiến) với cộng đồng, xã hội, trên cơ sở lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc. Đồng thời, những công dân đó được quan tâm phát triển “hoàn toàn năng lực sẵn có”. Đây là triết lý giáo dục phản ánh tính thực tiễn cao và mang tính hiện đại. 

Những nội dung của triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục được chính Người cùng với Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta hiện thực hóa, qua đó góp phần tạo lập nên nền giáo dục cách mạng. Nhờ sự hiện thực hóa đó, nền giáo dục của một nước độc lập đã đào tạo ra lớp lớp các thế hệ người Việt Nam trở thành người công dân hữu ích, phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cách mạng.

2. Triết lý Hồ Chí Minh về giáo dục soi sáng định hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới

Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhờ đó có sự dịch chuyển lao động chất lượng cao, nên nhu cầu hợp tác giáo dục, khoa học, công nghệ đặt ra yêu cầu phải đào tạo con người có năng lực cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các đặc trưng: Trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT)… đòi hỏi thế hệ trẻ không chỉ có kiến thức khoa học cơ bản, mà còn phải có năng lực số, tư duy sáng tạo, kỹ năng số để trở thành công dân toàn cầu, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của thời cuộc. Vì vậy, phát triển phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới cần chuyển từ “học để biết” sang “học để làm”, “học để chung sống” và “học để tự khẳng định mình”, coi trọng năng lực toàn diện.

Trải quả gần 40 năm đổi mới đất nước, giáo dục và đào tạo ở nước ta cùng khoa học, công nghệ đang ngày càng trở thành động lực then chốt cho phát triển nhanh, bền vững đất nước. Tuy nhiên, giáo dục Việt Nam vẫn còn những hạn chế trong xác định mục tiêu và nội dung, phương pháp giáo dục, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu trong các ngành mũi nhọn. Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, chưa thực sự trở thành động lực then chốt cho sự phát triển bứt phá của đất nước... Hệ thống giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp phát triển manh mún, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nghiên cứu khoa học, nhất là ở một số ngành, lĩnh vực trọng điểm”11. Do vậy, để thực hiện khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình, đòi hỏi giáo dục phải nuôi dưỡng khát vọng dân tộc, phát triển con người toàn diện, nhất là tập trung cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, qua đó trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước nhanh, bền vững, phấn đấu đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Theo đó, dưới ánh sáng triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục, trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, cần thực hiện tốt các định hướng cơ bản sau để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:

Một là, kiên định mục tiêu phát triển nguồn nhân lực “vừa hồng, vừa chuyên”.

Từ nội dung triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục, nhất là về đào tạo cán bộ vừa có tài, vừa có đức, nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên phát triển mới không chỉ là những người giỏi kỹ năng nghề nghiệp, mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm xã hội cao, nhất là dám dấn thân, dám đổi mới sáng tạo, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, vì lợi ích cộng đồng xã hội, lợi ích của Tổ quốc, dám chịu trách nhiệm trong công việc. Để đạt được điều này, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là mục tiêu đến năm 2030: “Xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”12; tầm nhìn đến năm 2045 có “Nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước, góp phần đưa Việt Nam thành nước phát triển, có thu nhập cao”13.

Để đạt được mục tiêu trên, hệ thống giáo dục quốc dân cần lồng ghép giáo dục chính trị, đạo đức công dân vào các bậc học; xây dựng chuẩn đầu ra về phẩm chất chính trị, đạo đức cho học sinh, sinh viên, cán bộ, công chức. Đồng thời, khuyến khích các cơ sở giáo dục tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo “kỹ năng sống”, “trách nhiệm công dân” song song với đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn. Bên cạnh đó, việc đánh giá phẩm chất đạo đức trong đào tạo và tuyển dụng cần được thực hiện đồng bộ thông qua việc không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển dụng, bố trí, sử dụng và đánh giá nhân lực.

Hai là, gắn đào tạo với thực tiễn và nhu cầu phát triển của đất nước.

Trong điều kiện thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển vượt bậc, có khả năng thay thế một số công việc của con người, nếu đào tạo không gắn với nhu cầu, sẽ dẫn tới tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Dưới chỉ dẫn của triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chỉ đạo các cơ sở đào tạo đại học, đào tạo nghề tăng cường liên kết “Nhà trường - Doanh nghiệp - Viện nghiên cứu”; thực hiện đào tạo theo cơ chế đặt hàng và mở rộng thực hành, thực tập ở các cơ quan, đơn vị nhà nước cũng như các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, nhiều trường đại học, cao đẳng nghề đã thí điểm mô hình đào tạo kép (Dual Education) kết hợp học lý thuyết và làm việc tại doanh nghiệp. Song cần có cơ chế pháp lý và chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn để bảo đảm nguồn nhân lực qua đào tạo có thể cung ứng hiệu quả cho nhu cầu của thực tiễn đời sống xã hội.

Ba là, xây dựng nền giáo dục nhân văn, hiện đại, mang bản sắc dân tộc.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhân lực Việt Nam phải giỏi chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ, kỹ năng số, nhưng vẫn giữ được bản sắc và giá trị văn hóa dân tộc. Đây chính là mục tiêu sâu xa mà triết lý Hồ Chí Minh hướng tới là “giáo dục làm người” với đầy đủ hàm nghĩa của con người mới xã hội chủ nghĩa. Thực hiện mục tiêu này, trong quá trình giáo dục, cần chú trọng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, văn hóa, đạo đức nghề nghiệp vào chương trình đào tạo; khuyến khích nghiên cứu ứng dụng văn hóa trong hoạt động sáng tạo và phát triển công nghệ mới, công nghệ lõi. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, cần tiếp tục khuyến khích các startup Việt Nam đã thành công nhờ kết hợp công nghệ với bản sắc văn hóa, như thiết kế game, sản phẩm sáng tạo dựa trên chất liệu dân gian mang đậm cốt cách, con người Việt Nam.

Bốn là, xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời.

Để thực hiện mục tiêu giáo dục ra người công dân tốt, cán bộ tốt phục vụ nước nhà, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần nêu cao tinh thần “học tập suốt đời”. Trong kỷ nguyên tri thức, nhân lực chất lượng cao phải liên tục cập nhật kiến thức mới. Vì vậy, để xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời, cần đẩy mạnh phát triển xã hội học tập, mở rộng đào tạo trực tuyến, công nhận kết quả học tập từ nhiều con đường khác nhau (bằng nghề, chứng chỉ kỹ năng), thúc đẩy hiệu quả “chuyển đổi số” trong giáo dục và đào tạo, phong trào “Bình dân học vụ số”; đồng thời tiếp tục thực hiện hiệu quả Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030” theo Quyết định số 1373/QĐ-TTg, ngày 30/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, gắn với “chuyển đổi số” và nhu cầu thị trường.

Năm là, bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục.

Muốn có nhân lực tinh hoa, phải xây dựng nền tảng phổ quát. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: ai cũng có quyền được học hành và cần “chống nạn thất học”. Do đó, cần tiếp tục quan tâm và tăng cường đầu tư cho giáo dục ở vùng sâu, vùng xa; có chính sách học bổng, hỗ trợ học tập cho học sinh nghèo, học sinh người dân tộc thiểu số. Thực tiễn cho thấy, Chương trình mục tiêu quốc gia vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã hỗ trợ xây dựng nhiều trường bán trú, nội trú, song chất lượng giáo dục vẫn còn chênh lệch lớn so với vùng đồng bằng và đô thị. Vì thế, cần nhanh chóng triển khai hiệu quả Thông báo kết luận số 81-TB/TW, ngày 18/7/2025 của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới; quan điểm của Bộ Chính trị về đột phát phát triển giáo dục và đào tạo: “Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo nghề chất lượng cao cho đồng bào người dân tộc thiểu số ở các ngành nghề phù hợp”14.

Sáu là, phát triển năng lực số và hội nhập quốc tế.

Trong kỷ nguyên “chuyển đổi số”, nhân lực chất lượng cao phải có năng lực công nghệ, ngoại ngữ, kỹ năng của công dân toàn cầu. Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các em”, trong quá trình giáo dục hiện nay cần tăng cường dạy kỹ năng số, ngoại ngữ, kỹ năng toàn cầu vào chương trình giáo dục từ phổ thông đến đại học. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ về đào tạo công nghệ thông tin, nhưng nhân lực AI, Big Data, công nghệ bán dẫn, logistics, an ninh mạng vẫn còn thiếu hụt lớn. Đây là lĩnh vực trọng điểm, do đó Nhà nước, nhất là Bộ Giáo dục và Đào tạo, các địa phương cần quan tâm đầu tư mạnh mẽ cả về nguồn lực tài chính và nguồn lực con người, đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích hợp tác với doanh nghiệp, cơ sở giáo dục quốc tế.

Tóm lại, dưới ánh sáng triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục, việc đổi mới mục tiêu giáo dục và đào tạo ở nước ta trong kỷ nguyên mới là yêu cầu tất yếu, cấp bách và có ý nghĩa chiến lược. Đây là một trong những khâu đột phá để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng con người Việt Nam toàn diện, nuôi dưỡng khát vọng dân tộc để thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực hiện tốt những định hướng trên không chỉ là sự vận dụng sáng tạo triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục, mà còn là con đường để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước thịnh vượng, phồn vinh, hạnh phúc vào giữa thế kỷ XXI.


1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 647.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 612.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 528.

4, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 280, 292.

5, 9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 435, 344.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 400.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 208.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 34.

11, 12, 13, 14. Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin