Tổ chức và cơ chế thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam

CT&PT - Việc kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam bắt nguồn từ nguồn gốc của quyền lực và từ nguồn gốc và bản chất của quyền lực chính trị. Đây là nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền. Việc kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một Đảng duy nhất lãnh đạo.

CT&PT - Việc kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam bắt nguồn từ nguồn gốc của quyền lực và từ nguồn gốc và bản chất của quyền lực chính trị. Đây là nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền. Việc kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một Đảng duy nhất lãnh đạo.

Ở Việt Nam, quyền lực được tổ chức về cơ bản khác với các nước khác. Quyền lực chính trị được tập trung vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đời sống chính trị đất nước, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất cầm quyền. Quan hệ Đảng – Chính phủ tại Việt nam, cũng có thể thấy nguyên tắc song trùng trực thuộc cũng đã chi phối trong thời gian dài. Theo đó, nguyên tắc “song trùng” nghĩa là tổ chức đảng cũng có các bộ phận như chính phủ.  Nguyên tắc “Trực thuộc” có nghĩa các ban chấp hành đảng chỉ đạo trực tiếp các cơ quan chính phủ cùng cấp.  Chính quyền là cơ quan duy nhất có thẩm quyền pháp lý điều hành, tuy nhiên lại chịu sự lãnh đạo của BCH đảng bộ, và cả sự điều hành của các chính quyền cấp trên (ngành dọc).  Do vậy, quyền lực bị phân tán với nghĩa là ra quyết định cần sự đồng thuận của nhiều cơ quan. Thể chế như vậy cho thấy có rất nhiều cơ quan, nhân vật tuy không có quyền quyết nhưng là có quyền phủ quyết trên thực tế.  Ngoài ra còn có mâu thuẫn giữa cấp độ quyền lực và thẩm quyền pháp lý (mà bản chất là sự ủy nhiệm của người dân) vẫn chưa được giải quyết: người có quyền quyết định cao nhất lại không phải do người dân ủy quyền.  

Về nguyên tắc, quyền lực chính trị được trao cho 3 chủ thể quan trọng với cơ chế hoạt động: Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ (thông qua các tổ chức chính trị - xã hội). Cơ chế này còn được biết đến ở phương diện khác như là một cơ chế vận hành, nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Nội dung của cơ chế được thể hiện rất cụ thể ở trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, có thể mô tả một cách khái quát nhất như sau:

Hiến pháp 2013 quy định ‘Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân,….., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’ (Điều 4). Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách, chủ trương lớn. Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng, chủ trương lớn này của Đảng cần được sự đồng thuận của nhân dân. Nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham gia góp ý vào nội dung dự thảo các văn bản, văn kiện của Đảng trước khi ban hành. Đảng lãnh đạo thông qua việc giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình để nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu phải thông qua Nhà nước chứ không phải lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập đứng bên ngoài hay đứng bên trên Nhà nước bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước; phù hợp với sự phát triển của nền dân chủ XHCH nói chung và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta nói riêng. Đảng phải phát huy vai trò và trách nhiệm cá nhân của từng đảng viên ưu tú của Đảng, được nhân dân tín nhiệm bầu, nhân dân chính thức giao quyền. Cần thực hiện tốt phương thức lãnh đạo thông qua đảng viên nắm giữ các cương vị chủ chốt của Nhà nước ở các cấp, đượcbầu cử dân chủ với các quy chế pháp lý chặt chẽ, ràng buộc trách nhiệm của những người này trước Đảng và trước nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và chứng minh cho nhân dân thấy tính đúng đắn và tính khoa học trong đường lối, quyết sách của mình. Đảng tăng cường công tác tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.

Hiến pháp 2013 cũng quy định ‘Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ’ (Điều 8). Như vậy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể chính trị chính yếu trong thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam. Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật; trực tiếp thực thi quyền lực chính trị thông qua hệ thống chính sách, pháp luật của mình.

Để có thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, Nhà nước phải được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm “lao động” quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, hiệu quả. Nguyên tắc ở đây là Nhà nước sinh ra để phục vụ nhân dân. Trong một xã hội dân chủ thì Nhà nước phải là người bảo vệ quyền công dân, quyền con người. Mức độ dân chủ của một xã hội có thể được đo lường bằng số lượng những quyền công dân, quyền con người mà một công dân bình thường có thể thực hiện được trên thực tế.

Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều từ nhân dân và vì nhân dân. Người dân không chỉ thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các đại biểu do mình bầu ra, mà họ còn tự mình thực hiện những quyền đó. Người dân còn tự thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn theo quy định của pháp luật để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của mình. Cũng thông qua các tổ chức của mình, người dân sẽ thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có thực hiện đúng những “cam kết” đã thỏa thuận với nhân dân hay không. Như vậy, điều cần nhấn mạnh ở đây là, người dân thực hiện quyền làm chủ của mình không chỉ thông qua bộ máy nhà nước, mà họ còn tự mình thực hiện quyền ấy trên cơ sở các tiêu chí, yêu cầu mà luật pháp đã quy định. 

Nhưng cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chỉ có thể vận hành và đưa lại kết quả thiết thực khi các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân được phân định rành mạch về quyền và trách nhiệm của mỗi chủ thể thông qua một hệ thống thể chế và quy chế. Về nguyên tắc, quyền hạn phải luôn gắn với trách nhiệm cùng với nó là các biện pháp kiểm soát quyền hạn.

Trong bối cảnh hiện nay, có sự chia sẻ các chức năng quyền lực giữa 3 chủ thể này. Sự tham gia của người dân thông qua các tổ chức xã hội dân sự gày càng có tác động mạnh mẽ đến các quyết định chính trị quan trọng của đất nước. Nhà nước pháp quyền  xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là nguyên tắc cơ bản chi phối việc thiết kế mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay. Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải dẫn dắt, nhưng không phải với tư cách một sự áp đặt quyền lực từ bên ngoài. Thay vào đó, Đảng phải là và phải hành động như một cơ chế hữu cơ để mang tính tiền phong.

TS. Hoàng Trung Hải

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin