Thực hiện công bằng xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam

CT&PT - Công bằng xã hội là một trong những nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa xã hội, đồng thời là mục tiêu xuyên suốt trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua gần bốn thập niên đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế và cải thiện phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, quá trình phát triển cũng đặt ra không ít thách thức đối với việc bảo đảm công bằng xã hội, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bài viết này phân tích những kết quả đạt được, các vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số định hướng, giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tốt công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.

1. Kết quả đạt được trong thực hiện công bằng xã hội thời kỳ đổi mới

Trong tiến trình đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986, công bằng xã hội luôn được xác định là một trong những mục tiêu vừa có tính lâu dài, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp thiết. Khác với mô hình cào bằng, bình quân chủ nghĩa từng tồn tại trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tư duy đổi mới đặt ra yêu cầu dung hòa giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội - một định hướng đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên thực tế, quá trình đổi mới đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng trong việc hiện thực hóa công bằng xã hội trên nhiều lĩnh vực. Những kết quả ấy không chỉ minh chứng cho đường lối đổi mới đúng đắn mà còn khẳng định vai trò của Nhà nước trong điều tiết xã hội, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa các nhóm xã hội, giữa phát triển kinh tế và phúc lợi cộng đồng.

Đổi mới tư duy và thể chế bảo đảm công bằng xã hội.

Một trong những thành quả đầu tiên và quan trọng nhất chính là sự đổi mới mạnh mẽ trong nhận thức lý luận và thể chế hóa các quan điểm về công bằng xã hội. Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã xác định rõ yêu cầu “phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội”. Quan điểm này tiếp tục được cụ thể hóa và phát triển qua các kỳ Đại hội sau, đặc biệt là từ Đại hội IX trở đi, khi Đảng khẳng định rõ hơn công bằng xã hội không chỉ là hệ quả của phát triển mà còn phải được thực hiện ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển. Đến Đại hội XIII, yêu cầu về bảo đảm công bằng xã hội được nhấn mạnh trong định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, như một trụ cột để đạt được phát triển bao trùm và bền vững.

Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật và chính sách về bảo đảm công bằng xã hội từng bước được hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013 khẳng định các quyền con người, quyền công dân, bao gồm quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền bình đẳng trong tiếp cận cơ hội phát triển, quyền được chăm sóc sức khỏe, học tập và lao động. Luật pháp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, việc làm, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội... được sửa đổi, bổ sung liên tục để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, mở rộng diện bao phủ, nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền phúc lợi cơ bản của người dân.

Bên cạnh đó, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, gắn với đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh... được định hướng không chỉ nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy sự công bằng trong phân phối nguồn lực, tiếp cận cơ hội phát triển giữa các vùng miền, giữa các nhóm dân cư.

Kết quả trong giảm nghèo, nâng cao mức sống và mở rộng phúc lợi xã hội.

Một trong những thành tựu nổi bật thể hiện tính nhân văn và hiệu quả của quá trình đổi mới là kết quả giảm nghèo nhanh chóng, vững chắc. Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia giảm từ hơn 58% năm 1993 xuống còn dưới 3% vào năm 2023. Sự chuyển biến này không chỉ là con số thống kê, mà còn phản ánh sự thay đổi căn bản trong điều kiện sống, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và năng lực tham gia phát triển kinh tế của hàng chục triệu người dân trên cả nước. Việt Nam được Ngân hàng Thế giới và Liên Hợp Quốc ghi nhận là một trong những quốc gia điển hình trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo.

Kết quả giảm nghèo không phải là hệ quả tự động của tăng trưởng kinh tế mà là thành tựu của một chuỗi các chính sách có tính hệ thống, từ phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề, tạo việc làm, đến xây dựng hệ thống trợ giúp xã hội và bảo hiểm xã hội cho người nghèo. Các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình 135, Chương trình 30a, Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được triển khai rộng khắp, góp phần cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của người dân vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số - những khu vực vốn là điểm nghẽn của công bằng xã hội.

Cùng với giảm nghèo, mức sống của đại bộ phận người dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ khoảng 100 USD vào đầu thập niên 1990 lên hơn 4.300 USD vào năm 2023. Cơ cấu tiêu dùng chuyển dịch theo hướng tích cực, thể hiện qua mức chi cho y tế, giáo dục và các dịch vụ chất lượng ngày càng tăng. Việt Nam hiện nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trung bình cao (0,703 năm 2022), xếp thứ 115/191 quốc gia và vùng lãnh thổ, và liên tục cải thiện thứ hạng trong các bảng xếp hạng quốc tế về phát triển bền vững và bao trùm.

Hệ thống an sinh xã hội cũng được mở rộng và củng cố. Tính đến năm 2023, khoảng 92% dân số đã tham gia bảo hiểm y tế, hơn 17 triệu người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng hoặc trợ cấp xã hội. Đặc biệt, trong các giai đoạn khủng hoảng như đại dịch COVID-19, Nhà nước đã nhanh chóng triển khai các gói hỗ trợ tài chính lớn, với hàng triệu người lao động tự do, hộ kinh doanh nhỏ, người nghèo và các đối tượng yếu thế được hỗ trợ trực tiếp, thể hiện vai trò của Nhà nước trong điều tiết và bảo vệ công bằng xã hội trong bối cảnh khó khăn.

Mở rộng cơ hội và nâng cao tính bao trùm trong tiếp cận dịch vụ công.

Một khía cạnh then chốt của công bằng xã hội là bảo đảm cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi người dân, đặc biệt trong các lĩnh vực cơ bản như giáo dục và y tế. Trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng giáo dục, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nhập học tiểu học gần như đạt 100%, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đã hoàn thành trên phạm vi toàn quốc. Chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, hỗ trợ sách giáo khoa, chi phí học tập... được áp dụng rộng rãi nhằm giảm rào cản tài chính cho học sinh nghèo, tạo điều kiện cho mọi trẻ em đều được đến trường.

Trong lĩnh vực y tế, mạng lưới cơ sở y tế được củng cố từ trung ương đến cơ sở, với hơn 95% xã có trạm y tế, hàng nghìn trạm được đầu tư nâng cấp, đạt chuẩn quốc gia. Chính sách bảo hiểm y tế toàn dân không chỉ góp phần giảm gánh nặng chi phí y tế cho người dân mà còn nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tử vong mẹ và trẻ sơ sinh giảm mạnh, tuổi thọ trung bình tăng từ khoảng 67 tuổi (năm 1990) lên trên 74 tuổi (năm 2022), phản ánh hiệu quả tích cực của chính sách chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Một thành tựu đáng chú ý nữa là việc thúc đẩy tiếp cận bình đẳng với thị trường lao động và các nguồn lực phát triển. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy khởi nghiệp, nhất là đối với phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật và thanh niên. Trong những năm gần đây, định hướng phát triển bao trùm và bền vững được đẩy mạnh hơn nữa qua các chiến lược phát triển bền vững, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, chính sách khuyến khích doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội.

Vai trò điều tiết của Nhà nước trong định hướng công bằng xã hội.

Có thể khẳng định rằng, công bằng xã hội ở Việt Nam không phải là sản phẩm tất yếu của tăng trưởng kinh tế, mà là kết quả của sự chủ động can thiệp và điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cơ chế phân phối hiện nay được thiết kế theo nguyên tắc kết hợp ba yếu tố: phân phối theo lao động và hiệu quả, phân phối qua thị trường và phân phối lại thông qua ngân sách nhà nước. Trong đó, vai trò phân phối lại thông qua chính sách thuế, trợ cấp, đầu tư công và dịch vụ xã hội ngày càng được chú trọng nhằm khắc phục những méo mó của thị trường, hạn chế bất bình đẳng và bảo vệ các nhóm yếu thế.

Cùng với đó, các thiết chế chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, các phương tiện truyền thông... ngày càng phát huy vai trò trong phản biện chính sách, giám sát thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, góp phần thúc đẩy công bằng xã hội từ góc độ xã hội dân sự.

2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện công bằng xã hội

Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, song quá trình thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam vẫn còn đối mặt với không ít vấn đề phức tạp, mang tính cơ cấu và có xu hướng gia tăng trong bối cảnh phát triển mới. Những vấn đề này không chỉ là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là biểu hiện của các giới hạn trong thiết kế thể chế, năng lực quản trị và cơ chế thực thi chính sách. Việc nhận diện đúng và đầy đủ những vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện các công cụ bảo đảm công bằng xã hội trong giai đoạn tiếp theo.

Gia tăng bất bình đẳng thu nhập và sự phân hóa giàu nghèo

Một trong những thách thức nổi bật nhất hiện nay là tình trạng bất bình đẳng thu nhập và tài sản đang có xu hướng gia tăng, cả về chiều rộng và chiều sâu. Chỉ số Gini đo lường mức độ bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam những năm gần đây dao động quanh mức 0,38 - 0,42, phản ánh mức độ bất bình đẳng ở mức trung bình cao và chưa có dấu hiệu giảm đáng kể. Khoảng cách giữa nhóm thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất tiếp tục nới rộng, đặc biệt là ở khu vực thành thị và các vùng kinh tế trọng điểm. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2023), nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất đang chiếm tới gần 50% tổng thu nhập xã hội, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ chiếm chưa tới 7%[1].

Không chỉ thu nhập, sự phân hóa còn thể hiện ở tài sản, cơ hội tích lũy, khả năng đầu tư giáo dục - y tế và tiếp cận các dịch vụ chất lượng cao. Những người có điều kiện kinh tế tốt thường sinh sống tại các đô thị lớn, được hưởng lợi từ hạ tầng phát triển, dịch vụ chất lượng, trong khi người nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vẫn đang đối mặt với những rào cản cơ cấu. Tình trạng này dẫn đến nguy cơ tái sản xuất bất bình đẳng theo thế hệ khi con cái người nghèo tiếp tục bị giới hạn trong tiếp cận giáo dục, việc làm và các cơ hội phát triển, từ đó làm suy yếu tính công bằng cơ hội và làm xói mòn tinh thần gắn kết xã hội.

Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa nhanh chóng và làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị cũng tạo nên các hình thức bất bình đẳng mới. Lao động di cư, phần lớn làm việc trong khu vực phi chính thức, không có hợp đồng lao động và không được bảo hiểm xã hội, dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế và thiên tai. Việc thiếu các cơ chế bảo vệ phù hợp đã làm gia tăng mức độ dễ bị tổn thương của một bộ phận lớn dân cư đô thị - những người vừa không thuộc diện nghèo truyền thống, nhưng cũng không đủ điều kiện tiếp cận các phúc lợi xã hội cơ bản.

Chênh lệch vùng miền và tiếp cận dịch vụ công.

Một biểu hiện khác của bất công xã hội là sự chênh lệch rõ rệt giữa các vùng miền trong tiếp cận cơ hội phát triển, nhất là trong giáo dục, y tế, hạ tầng và thị trường lao động. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên đầu tư cho vùng khó khăn, nhưng khoảng cách giữa đồng bằng - miền núi, giữa đô thị - nông thôn vẫn rất lớn. Nhiều tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vẫn có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn mức trung bình cả nước từ 2 - 3 lần. Trẻ em dân tộc thiểu số có nguy cơ bỏ học cao hơn, tỷ lệ tiếp tục học lên THPT và đại học thấp hơn đáng kể so với trẻ em người Kinh. Nhiều xã vùng sâu vùng xa chưa có trường học đạt chuẩn, trạm y tế thiếu nhân lực, cơ sở vật chất xuống cấp, chưa đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cơ bản cho người dân.

Sự bất bình đẳng trong phân bổ ngân sách, nguồn lực đầu tư và chất lượng cung ứng dịch vụ công giữa các địa phương là một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến chênh lệch vùng miền. Một số địa phương có năng lực thu ngân sách tốt được phép giữ lại phần lớn nguồn thu để đầu tư phát triển, trong khi các tỉnh nghèo phụ thuộc vào ngân sách Trung ương, nhưng mức phân bổ lại thấp, dẫn đến vòng xoáy luẩn quẩn của đói nghèo - thiếu đầu tư - chậm phát triển. Mặt khác, việc triển khai các chính sách hỗ trợ ở vùng khó khăn còn nặng về hành chính, thiếu sự linh hoạt, chưa thực sự phát huy nội lực của cộng đồng địa phương.

Hạn chế trong hệ thống an sinh và bảo vệ nhóm yếu thế.

Tuy hệ thống an sinh xã hội đã được mở rộng về diện bao phủ, nhưng còn nhiều hạn chế về chiều sâu và tính bền vững. Một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm ngoài hệ thống bảo hiểm xã hội, đặc biệt là lao động khu vực phi chính thức, chiếm tới gần 60% lực lượng lao động cả nước. Điều này không chỉ làm giảm tính bao trùm của chính sách bảo hiểm mà còn gây rủi ro cho người lao động khi ốm đau, thất nghiệp, về già. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm hưu trí còn thấp, phản ánh sự thiếu đồng bộ giữa chính sách và điều kiện thực tế của phần lớn người lao động.

Đối với nhóm yếu thế, bao gồm người nghèo, người khuyết tật, người cao tuổi không có lương hưu, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, các chính sách trợ giúp xã hội còn dàn trải, mức hỗ trợ thấp, thủ tục hành chính phức tạp, chưa thật sự phù hợp với nhu cầu cá nhân và khả năng phục hồi sinh kế. Trong nhiều trường hợp, chính sách chưa giúp người hưởng trợ cấp thoát khỏi tình trạng phụ thuộc mà lại làm tăng tâm lý ỷ lại, thiếu động lực vươn lên.

Ngoài ra, tác động của đại dịch COVID-19 đã bộc lộ rõ những điểm nghẽn trong hệ thống an sinh xã hội. Việc triển khai các gói hỗ trợ cho người lao động và hộ kinh doanh nhỏ gặp nhiều khó khăn do thiếu dữ liệu, thiếu linh hoạt và thiếu sự phối hợp giữa các cấp chính quyền. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về cải cách hệ thống quản trị an sinh theo hướng hiện đại, số hóa và lấy người dân làm trung tâm.

Vấn đề công bằng trong giáo dục, y tế và việc làm.

Mặc dù tỷ lệ tiếp cận giáo dục và y tế đã cải thiện đáng kể, nhưng chất lượng dịch vụ vẫn chưa đồng đều. Trong lĩnh vực giáo dục, sự chênh lệch về điều kiện học tập giữa các khu vực, nhất là giữa thành thị và nông thôn, đang ảnh hưởng đến kết quả học tập và khả năng cạnh tranh của học sinh. Các trường học ở vùng khó khăn thường thiếu giáo viên có năng lực, cơ sở vật chất nghèo nàn, chương trình giáo dục không phù hợp với đặc thù văn hóa - xã hội của cộng đồng địa phương. Chất lượng đầu vào đại học vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực sinh sống và điều kiện gia đình, dẫn đến sự mất công bằng trong giáo dục đại học - lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với cơ hội vươn lên xã hội.

Trong y tế, sự phân tầng dịch vụ diễn ra rõ nét. Người có thu nhập cao có thể sử dụng các dịch vụ y tế chất lượng, tại các bệnh viện tư hoặc tuyến trung ương, trong khi người nghèo phụ thuộc vào trạm y tế xã hoặc bệnh viện tuyến huyện với trang thiết bị, nhân lực hạn chế. Bên cạnh đó, tình trạng lạm dụng kỹ thuật cao, chi phí điều trị đắt đỏ, và các khoản “chi ngoài” đang làm gia tăng gánh nặng tài chính cho người bệnh, ảnh hưởng đến tính công bằng trong khám chữa bệnh.

Thị trường lao động cũng đang hình thành các rào cản vô hình đối với một bộ phận thanh niên, phụ nữ và người dân tộc thiểu số. Cơ hội tiếp cận việc làm tốt, ổn định, có bảo hiểm xã hội chủ yếu tập trung ở các khu vực đô thị, các ngành có yêu cầu trình độ chuyên môn cao. Trong khi đó, phần lớn lao động trẻ ở nông thôn thiếu kỹ năng, thiếu thông tin thị trường, dẫn đến tình trạng thất nghiệp, làm việc tự do, không có hợp đồng và không được bảo vệ về quyền lợi lao động.

Hạn chế trong thiết kế chính sách và thực thi công bằng xã hội.

Một điểm nghẽn quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội là sự thiếu đồng bộ trong thiết kế chính sách và hạn chế trong năng lực tổ chức thực hiện. Nhiều chính sách phúc lợi còn mang tính ngắn hạn, giải quyết tình thế, chưa dựa trên phân tích dữ liệu và bằng chứng thực tiễn. Mặt khác, cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp trong triển khai chính sách chưa hiệu quả, dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu liên thông hoặc bỏ sót đối tượng.

Đáng lưu ý là vai trò giám sát xã hội, phản biện chính sách của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp và cộng đồng dân cư còn chưa được phát huy đầy đủ. Việc thiếu minh bạch trong quản lý ngân sách, thiếu dữ liệu thống kê phân tách theo nhóm yếu thế... cũng là nguyên nhân khiến cho các chính sách hướng tới công bằng xã hội khó đạt được hiệu quả như kỳ vọng.

3. Định hướng tiếp tục thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn tới

Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển phát triển nhanh và bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, yêu cầu về bảo đảm công bằng xã hội tiếp tục đặt ra những yêu cầu ngày càng cao và toàn diện hơn. Không chỉ còn là nguyên tắc đạo lý và chính trị, công bằng xã hội ngày nay đã trở thành một trụ cột của phát triển bền vững, một nhân tố cốt lõi để củng cố niềm tin xã hội, tăng cường sự gắn kết cộng đồng và bảo vệ bản sắc hệ giá trị xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, cần có sự tiếp cận mới về tư duy, thể chế và phương thức thực hiện công bằng xã hội, phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những chuyển động mạnh mẽ của thời đại.

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó Nhà nước giữ vai trò kiến tạo phát triển, điều tiết phân phối và bảo đảm phúc lợi xã hội. Điều này đòi hỏi không chỉ cải cách hệ thống pháp luật mà còn phải nâng cao năng lực thực thi, hiện đại hóa quản trị công, tăng cường trách nhiệm giải trình và minh bạch hóa trong quản lý ngân sách, đầu tư công và cung ứng dịch vụ công.

Hai là, xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện, hiện đại, đa tầng và bao trùm, theo hướng lấy con người làm trung tâm và lấy dữ liệu làm nền tảng. Cần đẩy nhanh tiến độ bao phủ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là mở rộng diện tham gia tự nguyện của lao động khu vực phi chính thức; cải cách chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hưu trí và trợ cấp xã hội để phù hợp hơn với thực tiễn. Đồng thời, xây dựng hệ thống trợ giúp xã hội dựa trên mức sống tối thiểu, tích hợp các chương trình hiện hành, số hóa dữ liệu đối tượng để quản lý chính xác và minh bạch hơn.

Ba là, giảm bất bình đẳng cơ hội thông qua cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm và dịch vụ công cho nhóm yếu thế. Cần đầu tư có trọng tâm vào các địa bàn khó khăn, ưu tiên đào tạo giáo viên, bác sĩ cho vùng sâu, vùng xa, tăng cường học bổng, tín dụng ưu đãi và chính sách hỗ trợ sinh viên nghèo. Trong y tế, cần đẩy mạnh đầu tư cho y tế cơ sở, tăng năng lực trạm y tế xã, đẩy mạnh khám chữa bệnh từ xa, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí dịch vụ y tế.

Bốn là, cải cách chính sách thuế và chi tiêu công theo hướng công bằng, bền vững và thân thiện với người nghèo. Cần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo không chỉ bằng công cụ trợ cấp mà bằng việc cải cách hệ thống thuế theo hướng lũy tiến, chống thất thu, chuyển từ thuế gián thu sang thuế trực thu, đánh thuế tài sản hợp lý; đồng thời ưu tiên ngân sách cho giáo dục, y tế, nhà ở xã hội và các chương trình giảm nghèo.

Năm là, thúc đẩy phát triển bao trùm trong môi trường số và chuyển đổi xanh, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình hiện đại hóa. Cần xây dựng các chương trình nâng cao năng lực số cho thanh niên, phụ nữ, người dân tộc thiểu số; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ trong chuyển đổi số; đồng thời phát triển mô hình sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm sinh kế bền vững cho người dân vùng ven biển, đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên.

Sáu là, tăng cường sự tham gia và giám sát của người dân, cộng đồng và các tổ chức xã hội trong xây dựng, thực hiện và giám sát chính sách công bằng xã hội. Việc thiết lập các cơ chế phản hồi chính sách, minh bạch hóa thông tin, khuyến khích báo chí, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức công đoàn, hội nghề nghiệp tham gia giám sát thực hiện công bằng xã hội sẽ tạo ra hệ sinh thái quản trị công khai, minh bạch, nhân văn hơn.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin