1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nấc thang phát triển mới về chất trong lịch sử phát triển về tổ chức, hoạt động nhà nước, thể hiện khát vọng cháy bỏng của loài người về mô hình nhà nước tiến bộ, dân chủ mà ở đó mọi người dân tự giác tuân thủ pháp luật và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.
Trong di sản lý luận đồ sộ để lại cho nhân loại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về nhà nước pháp quyền, nhưng tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền đã được đề cập sâu sắc theo quan điểm khoa học và cách mạng. Đó là xây dựng một nhà nước kiểu mới hợp hiến pháp; một hệ thống pháp luật dân chủ triệt để, pháp chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con người. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó “tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”, là sự phát triển tự do tối đa và sự phát triển toàn diện của con người. Vì con người và giải phóng con người là mục tiêu của một nhà nước pháp quyền kiểu mới. C. Mác và Ph. Ăngghen chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ với tính cách là chế độ nhà nước được thể hiện ra như là “một trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân”, là bước chuyển xã hội thần dân sang xã hội công dân, là từ nhân dân của nhà nước sang nhà nước của nhân dân. Trong xã hội mới sẽ tạo ra điều kiện để giải phóng cá nhân, bởi lẽ, xã hội đó không giải phóng cho mình được nếu không giải phóng mỗi một cá nhân riêng biệt và xã hội đó phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật. C. Mác và Ph. Ăngghen cũng bàn nhiều đến việc xây dựng hệ thống pháp luật tương ứng với nhà nước đó. Pháp luật là phương tiện thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền vàbảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền ấy. C. Mác chỉ ra cơ sở xã hội như nền tảng vật chất của pháp luật: “xã hội không lấy pháp luật làm cơ sở... Ngược lại, pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do một phương thức sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra, mà không phải do ý muốn tùy tiện của một cá nhân”. Từ tiêu chí đề cao dân chủ, pháp luật có thể thấy rằng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã hướng tới một nhà nước pháp quyền đích thực. V.I. Lênin đã kế tục xuất sắc và phát triển sáng tạo học thuyết Mác một cách toàn diện. Theo Người, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước không còn nguyên nghĩa, nhà nước nửa nhà nước, nhà nước quá độ để rồi chuyển dần tới chế độ tự quản. Đó phải là Nhà nước kiểu mới, Nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ là một cơ quan cai trị, mà còn là một cơ quan quản lý kinh tế, một bộ máy điều hành nền sản xuất xã hội. Nhà nước kiểu mới đó vừa là một công cụ bạo lực vừa là một tổ chức trực tiếp thực hiện chức năng trung tâm là quản lý kinh tế. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư cách là kiểu pháp luật mới, pháp luật xã hội chủ nghĩa là phương tiện của Nhà nước xã hội chủ nghĩa để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới, quan hệ xã hội chủ nghĩa. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là nền tảng pháp lý của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, là khuôn khổ hay hành lang để xây dựng và củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũn như bảo đảm các quyền của người dân lao động. Những yếu tố pháp quyền trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin đã góp phần làm phong phú các tư tưởng về nhà nước pháp quyền và đặt ra những ý tưởng mầm mống cho việc xây dựng Nhà nước kiểu mới ở các nước xã hội chủ nghĩa - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa sau này.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng một nhà nước kiểu mới, mô hình Nhà nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân - Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Người đã tiên phong, mở đường cho những tư tưởng, quan điểm về pháp quyền, nhân quyền, về các quyền tự do dân chủ, về vai trò của phápluật trong xã hội.
Thứ nhất, phải có nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Một nhà nước hợp pháp, hợp hiến là vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu. Trong bản Tuyên ngôn độc lập - khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bằng những lý lẽ chắc chắn, thuyết phục, Người đã trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về địa vị hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 03/9/1945), nhiệm vụ thứ ba trong sáu nhiệm vụ cấp bách được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống...”. Ngày 17/9/1945, Người ký Sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyển cử. Ngày 20/9/1945, Người ký Sắc lệnh số 34-SL thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuẩn bị đệ trình dự thảo Hiến pháp ra Quốc hội. Sự khẩn trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị tích cực cho sự ra đời của một nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước được coi là hợp pháp, hợp hiến là nhà nước phải được nhân dân thừa nhận thông qua Tổng tuyển cử, đồng thời phải có Hiến pháp và hệ thống pháp luật riêng, được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, sau khi chúng ta giành được chính quyền, mặc dù Chính phủ lâm thời được nhân dân ủng hộ và tin tưởng; trước sự chống phá quyết liệt của “thù trong, giặc ngoài”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương và kêu gọi nhân dân đi bầu cử để thành lập nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của một vĩ nhân, nhất là việc xử lý khéo léo, hiệu quả những vấn đề phức tạp, căng thẳng, những âm mưu phá hoại và can thiệp của cả bên trong và bên ngoài ở thời điểm lịch sử đó.
Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 đã bầu ra một Chính phủ hợp hiến và cũng là cuộc phổ thông đầu phiếu nhanh nhất, sớm nhất (chỉ 4 tháng sau ngày giành được nền độc lập), đưa lực lượng chính trị của nhân dân lên cầm quyền. Trên thế giới, chưa có quốc gia nào làm được điều này ngay sau khi giành chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút kinh nghiệm từ thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới, cùng với sự nhạy cảm và tư duy sắc bén đã hình thành nên một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp đầu tiên ở Việt Nam do nhân dân bầu ra, có đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề của đất nước. Chính vì sớm có một nhà nước hợp hiến, hợp pháp mà chúng ta đã ngăn chặn được những âm mưu nhằm can thiệp, lật đổ chính quyền còn non trẻ mà Nhân dân ta mới giành lại được.
Thứ hai, Nhà nước có hệ thống pháp luật đồng bộ và hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Nhà nước phải quản lý đất nước bằng pháp luật và làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, cùng với việc nỗ lực xác lập tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước, Người đã dành nhiều tâm sức để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Trong 24 năm ở cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác, nhằm tạo lập cơ sở pháp lý để bảo vệ độc lập, tự do, cho cuộc sống độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
Ngay sau khi nước ta giành được độc lập, khi chưa có Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 47/SL, ngày 10/10/1945 để giữ lại mọi luật lệ của chế độ cũ, chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập, tự do. Người giải thích: “Một xã hội không thể sống một ngày mà không có pháp luật”. Người cũng ký một loạt các sắc lệnh, như Sắc lệnh bãi bỏ thuế thân; tịch thu tài sản của thực dân và Việt gian, tổ chức Tòa án “độc lập với hành chính”, “các vị thẩm phán chỉ xử trong vòng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp”. Để tăng cường hiệu quả của pháp luật và để pháp luật đi vào cuộc sống, Người cho rằng, cần phát huy quyền dân chủ của nhân dân để nhân dân tham gia phê bình, giám sát công việc của Nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước phải có đội ngũ cán bộ tinh thông và vì dân, vì nước.
Khi xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến đội ngũ cán bộ nhà nước phải thực sự là “công bộc”, “đày tớ” của nhân dân. Người cho rằng cần phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức am hiểu về pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính, có trình độ văn hóa, có đức, có tài: “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Để vận động Nhân dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, Người cho rằng trước hết cán bộ, công chức phải nêu gương tuân thủ Hiến pháp, pháp luật.
Về công tác đào tạo cán bộ, Người chủ trương mở Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, thành lập Ban Pháp lý học tại Trường Đại học Việt Nam theo Sắc lệnh số 197 ngày 11/10/1946... Để bảo đảm công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ, Sắc lệnh số 76, ngày 20/5/1950 ban hành “Quy chế công chức”, quy định “... công chức phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc. Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình...”. Trong việc sử dụng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phát động “tìm người tài đức”, mà còn mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại dưới chế độ cũ có tài, có đức. Trong việc sử dụng cán bộ, Người luôn nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái, hẹp hòi; đặc biệt chú ý đến phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc, bởi vì đức là nền tảng của người cán bộ.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất, toàn diện của Đảng Cộng sản.
Có thể nói, đây là điểm khác biệt giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền ở các nước tư bản phương Tây. Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng, chính sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc giải phóng dân tộc, đồng thời giành được nhiều thắng lợi trong chống lại kẻ thù xâm lược cũng như xây dựng đất nước. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đập tan ách đô hộ của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, mang đến độc lập, tự do cho đất nước ta, xác lập vị thế người làm chủ vận mệnh nước nhà của nhân dân, đây là sự kiện “đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Theo đó, vai trò lãnh đạo và trọng trách của Đảng được khẳng định trong Hiến pháp - luật cơ bản của Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Cùng với đó, chính tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thể thoát ly khỏi sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với nhà nước nói chung và tổ chức quyền lực nhà nước nói riêng. Nghiên cứu về cách mạng Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Khi đưa ra những lý thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước, các nhà tư tưởng nổi tiếng thời cách mạng tư sản, như Môngtétxkiơ hay J. Rútxô chưa giải quyết triệt để vấn đề mối quan hệ giữa chính đảng cầm quyền và nhà nước; tiếp đó, học thuyết Mác-xít và lãnh tụ V.I. Lênin đề cập, đi sâu phân tích mối quan hệ giữa nhà nước và đảng cộng sản, song còn tập trung chủ yếu ở những nội dung lý luận, vĩ mô. Trong khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, nên có cơ sở thực tiễn để phát triển quan điểm về sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với việc tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm mục tiêu quản lý phát triển xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa.