Phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc

CT&PT - Phát triển du lịch cộng đồng ở vùng Tây Bắc Việt Nam là một hướng đi chiến lược nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng tự nhiên, văn hóa, lịch sử và con người bản địa, qua đó tạo sinh kế bền vững, giảm nghèo và góp phần bảo tồn bản sắc dân tộc.

1. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở các tỉnh vùng Tây Bắc
Vùng Tây Bắc gồm sáu tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái và Lào Cai được xem là “mái nhà của Tổ quốc”, nơi hội tụ nhiều giá trị độc đáo về địa hình, khí hậu, sinh thái và văn hóa tộc người. Với hơn 30 dân tộc sinh sống, Tây Bắc không chỉ là không gian văn hóa đa dạng mà còn là một trong những vùng có tiềm năng lớn nhất cả nước để phát triển du lịch cộng đồng (Community-Based Tourism - CBT). Trong những năm gần đây, cùng với xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chiến lược phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch cộng đồng đã trở thành hướng đi quan trọng, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn miền núi, thúc đẩy sinh kế và giảm nghèo bền vững.

img-5724-1760777512.jpg
 

Du lịch cộng đồng ở Tây Bắc bắt đầu manh nha từ đầu những năm 2000, gắn liền với các chương trình phát triển bền vững của Chính phủ và các tổ chức quốc tế. Ban đầu, các mô hình chủ yếu tập trung tại Hòa Bình và Lào Cai, sau đó lan tỏa ra Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Điện Biên. Điểm khởi đầu nổi tiếng là Bản Lác (Mai Châu, Hòa Bình) được coi là “cái nôi” của du lịch cộng đồng Việt Nam, nơi người Thái trắng biến chính ngôi nhà sàn của mình thành homestay phục vụ khách du lịch. Từ thành công của Bản Lác, mô hình này được nhân rộng sang Tả Van, Tả Phìn (Sa Pa, Lào Cai), Hua Tạt (Mộc Châu, Sơn La), Sin Suối Hồ (Lai Châu), Nậm Đăm (Hà Giang), hình thành một mạng lưới điểm đến đặc sắc trong toàn vùng trung du - miền núi phía Bắc.

Đến năm 2024, theo số liệu của Tổng cục Du lịch Việt Nam, vùng Tây Bắc có khoảng hơn 250 điểm du lịch cộng đồng đang hoạt động, thu hút gần 3,5 triệu lượt khách/năm, trong đó khoảng 15 - 20% là khách quốc tế1. Các điểm này không chỉ mang lại nguồn thu trực tiếp từ dịch vụ lưu trú, ăn uống, hướng dẫn, biểu diễn văn nghệ mà còn gián tiếp tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động thông qua chuỗi cung ứng nông sản, thủ công mỹ nghệ, vận tải và thương mại địa phương.

Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, nhiều dự án quốc tế như EU-ESRT (2013 - 2016), JICA (Nhật Bản), Helvetas (Thụy Sĩ) hay Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã triển khai chương trình “Du lịch có trách nhiệm” nhằm nâng cao năng lực cộng đồng, bảo tồn văn hóa và cải thiện môi trường sống. Nhờ đó, tư duy của người dân Tây Bắc đã chuyển biến rõ rệt - từ chỗ xem du lịch là hoạt động “của người ngoài” sang chủ động tham gia, làm chủ và hưởng lợi.

Tăng trưởng về quy mô, hạ tầng và doanh thu
Du lịch cộng đồng Tây Bắc đã có bước phát triển mạnh về quy mô. Tại Lào Cai, du lịch cộng đồng tập trung ở Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát, thu hút khoảng 2,3 triệu lượt khách nội địa và 430 nghìn khách quốc tế trong năm 2023, doanh thu đạt 9.800 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 20182. Các bản Tả Van, Tả Phìn, Cát Cát đã hình thành hệ thống dịch vụ lưu trú, ăn uống, trải nghiệm đồng bộ, được đánh giá cao về khả năng tự quản và bảo tồn cảnh quan.

a234-2-1760780488.jpg
Khu du lịch cộng đồng Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai (Nguồn: Tư liệu).

Tại Hòa Bình, huyện Mai Châu có hơn 130 cơ sở homestay, trong đó Bản Lác, Pom Coọng, Nà Phòn là những địa điểm tiêu biểu. Thu nhập bình quân của hộ làm du lịch đạt 150 - 200 triệu đồng/năm, cao gấp 3- 4 lần so với hộ sản xuất nông nghiệp thuần túy3. Du lịch cộng đồng đã trở thành ngành sinh kế chính của hàng nghìn hộ dân Thái, Mường, Tày, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo huyện Mai Châu giảm còn dưới 5% năm 2024.

Tại Sơn La, mô hình du lịch cộng đồng được phát triển theo hướng gắn với nông nghiệp công nghệ cao. Vùng Mộc Châu - Vân Hồ kết hợp homestay với trải nghiệm nông trại bò sữa, hái dâu tây, chế biến chè. Năm 2023, Mộc Châu đón hơn 3 triệu lượt khách, trong đó 70% có trải nghiệm tại các bản du lịch cộng đồng4. Nhiều hộ dân trở thành chủ doanh nghiệp nhỏ, cung cấp dịch vụ du lịch và sản phẩm OCOP như mật ong, rượu ngô, thổ cẩm.

Tại Lai Châu, điểm sáng là bản Sin Suối Hồ (huyện Phong Thổ) - mô hình du lịch cộng đồng tiêu biểu được ASEAN công nhận năm 2023. Bản có 120 hộ dân H’Mông tham gia, 100% nhà không rác thải nhựa, sử dụng năng lượng mặt trời, giữ nguyên kiến trúc gỗ truyền thống. Người dân vừa là chủ homestay, vừa là hướng dẫn viên và nghệ nhân. Năm 2023, Sin Suối Hồ đón hơn 60 nghìn lượt khách, doanh thu ước đạt 12 tỷ đồng, góp phần tăng thu nhập bình quân đầu người lên 70 triệu đồng/năm (UBND tỉnh Lai Châu 2024).

Còn tại Yên Bái, du lịch cộng đồng được gắn với cảnh quan ruộng bậc thang Mù Cang Chải, hồ Thác Bà, bản Ngòi Tu (Yên Bình). Các mô hình du lịch nông nghiệp, trải nghiệm mùa gặt, leo núi, đạp xe xuyên bản đã thu hút du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt, huyện Mù Cang Chải với mô hình “Ruộng bậc thang mùa vàng” đã trở thành thương hiệu du lịch cộng đồng quốc gia, được vinh danh là “Điểm đến du lịch có cảnh quan hấp dẫn nhất Việt Nam” năm 20225.

Nhìn chung, du lịch cộng đồng đã giúp các địa phương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng tỷ trọng dịch vụ và thương mại. Ước tính, thu nhập bình quân của người dân tham gia du lịch cộng đồng ở Tây Bắc cao gấp 2,5 - 3 lần so với hộ không tham gia; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3 - 5%/năm6.

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người.
Một trong những thành công lớn của du lịch cộng đồng Tây Bắc là khôi phục không gian văn hóa truyền thống. Tại Sa Pa, các nghi lễ như lễ Gầu Tào của người H’Mông, lễ Tết nhảy của người Dao đỏ được phục dựng và tổ chức phục vụ du khách nhưng vẫn giữ nguyên nghi thức, tính thiêng liêng. Ở Mai Châu, điệu múa xòe, nhạc cồng chiêng, khèn bè Thái đã trở thành “thương hiệu văn hóa” gắn liền với dịch vụ homestay. Nhiều làng nghề dệt thổ cẩm, đan lát, làm nhạc cụ được khôi phục, tạo thêm nguồn thu.

Đặc biệt, quá trình phát triển du lịch cộng đồng đã góp phần thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ. Tại nhiều bản du lịch, phụ nữ đóng vai trò chủ đạo trong tổ chức homestay, nấu ăn, hướng dẫn khách, điều hành hợp tác xã, trực tiếp tham gia vào chuỗi dịch vụ du lịch cộng đồng - đây là dấu hiệu tích cực cho phát triển xã hội bao trùm.

Hình thành mạng lưới liên kết vùng và sản phẩm du lịch đặc trưng.
Du lịch cộng đồng Tây Bắc không còn phát triển rời rạc mà đang từng bước hình thành mạng lưới liên kết vùng. Năm 2023, các tỉnh Tây Bắc mở rộng “Liên minh phát triển du lịch 8 tỉnh” (Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, Hà Giang, Phú Thọ) nhằm tạo hành lang du lịch khép kín, chia sẻ thông tin, sản phẩm và chiến dịch quảng bá. Nhiều tuyến du lịch liên vùng được khai thác: “Vòng cung Tây Bắc”, “Hành trình di sản ruộng bậc thang”, “Đường hoa Tây Bắc”, “Một hành trình - nhiều bản làng”.

Về sản phẩm, các địa phương đã chú trọng đa dạng hóa và gắn du lịch với sản phẩm OCOP, hình thành chuỗi giá trị nông sản - văn hóa - du lịch. Khách du lịch không chỉ nghỉ tại nhà dân mà còn tham gia thu hoạch lúa, làm bánh dày, nhuộm vải chàm, thưởng thức đặc sản địa phương. Đây là hướng đi phù hợp với xu thế du lịch trải nghiệm và du lịch xanh hiện nay.

Bên cạnh những kết quả đạt được, du lịch cộng đồng ở các tỉnh vùng Tây Bắc vẫn còn một số hạn chế, đó là:

Mặc dù, số lượng điểm du lịch cộng đồng tăng nhanh, song phần lớn còn phát triển tự phát, thiếu quy hoạch bài bản. Nhiều nơi chỉ chú trọng xây dựng cơ sở vật chất mà chưa có kế hoạch quản lý tài nguyên du lịch, dẫn đến tình trạng khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường và mất cân bằng văn hóa. Ví dụ, tại Sa Pa, việc mở rộng ồ ạt nhà nghỉ, homestay không kiểm soát đã gây áp lực lên hạ tầng, làm biến dạng cảnh quan truyền thống.

Người dân là chủ thể của du lịch cộng đồng nhưng phần lớn vẫn thiếu kỹ năng nghiệp vụ và năng lực quản trị. Khoảng 65% lao động chưa qua đào tạo về du lịch, ngoại ngữ, giao tiếp, vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhiều hộ còn lúng túng trong việc định giá dịch vụ, quảng bá sản phẩm và quản lý tài chính. Sự thiếu chuyên nghiệp khiến trải nghiệm du khách chưa ổn định, khó mở rộng thị trường quốc tế.

Mặc dù các tuyến giao thông trọng điểm đã được nâng cấp, song đường vào bản vẫn khó đi, đặc biệt vào mùa mưa. Dịch vụ phụ trợ như y tế, ngân hàng, viễn thông chưa phát triển, gây khó khăn cho việc mở rộng quy mô.

Sự gia tăng nhanh chóng của du khách, cùng với ý thức hạn chế của một bộ phận người dân, dẫn đến tình trạng ô nhiễm rác thải, xả nước thải chưa xử lý, bê tông hóa kiến trúc bản làng. Một số nơi biến lễ hội thành hoạt động trình diễn thương mại, làm mất đi tính thiêng và bản sắc.

Mặc dù có sự phối hợp liên tỉnh, nhưng các hoạt động xúc tiến du lịch vẫn thiếu tính chiến lược, trùng lặp và dàn trải. Tây Bắc chưa xây dựng được thương hiệu chung, khiến khả năng cạnh tranh thấp so với các vùng khác như Đông Bắc hoặc Tây Nguyên. Công tác quảng bá còn thủ công, ít ứng dụng công nghệ số. Thị trường khách quốc tế, đặc biệt là khách châu Âu và Bắc Mỹ - vốn ưa chuộng du lịch cộng đồng vẫn chưa được khai thác hiệu quả.

2. Giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc

Một là, hoàn thiện thể chế, quy hoạch và chính sách hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng.

Đây là điều kiện tiên quyết để bảo đảm du lịch cộng đồng phát triển có định hướng, bền vững và đồng bộ trong toàn vùng. Hiện nay, chính sách phát triển du lịch ở nhiều địa phương Tây Bắc vẫn mang tính phân tán, ngắn hạn và thiếu quy hoạch tổng thể, dẫn đến tình trạng phát triển tự phát, cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, cần sớm ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc đến năm 2035, tầm nhìn 2045, gắn với quy hoạch vùng trung du - miền núi phía Bắc theo Luật Quy hoạch năm 2017.

Quy hoạch cần làm rõ các vùng động lực, tuyến du lịch trọng điểm (như Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên - Lai Châu - Lào Cai - Yên Bái), đồng thời phân vùng bảo tồn - phát triển - dịch vụ, tránh chồng lấn và phá vỡ cảnh quan tự nhiên.

Chính phủ cần hoàn thiện khung pháp lý về du lịch cộng đồng và du lịch nông thôn, xác định rõ tiêu chí, điều kiện, quyền lợi và nghĩa vụ của cộng đồng, doanh nghiệp, chính quyền. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi đầu tư, tín dụng xanh và miễn giảm thuế cho các mô hình du lịch cộng đồng thân thiện môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo, tiết kiệm nước và hạn chế rác thải.

Đặc biệt, các tỉnh Tây Bắc nên ban hành “Bộ tiêu chí du lịch cộng đồng bền vững” trên cơ sở khung của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), làm căn cứ để cấp phép, đánh giá, xếp hạng và quản lý chất lượng dịch vụ.

Hai là, tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cộng đồng và phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Người dân là chủ thể của du lịch cộng đồng. Vì vậy, nâng cao năng lực và kỹ năng cho họ là giải pháp cốt lõi, mang tính “nội sinh” quyết định sự bền vững của mô hình.

Cần triển khai các chương trình đào tạo ngắn hạn và thường xuyên về nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ, marketing, quản trị homestay, kỹ năng giao tiếp, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường. Các khóa tập huấn có thể do Trường Cao đẳng Du lịch Tây Bắc, các trung tâm xúc tiến du lịch, tổ chức quốc tế (JICA, Helvetas, ILO…) phối hợp tổ chức, theo phương châm “học tại bản, làm tại chỗ”.

Đồng thời, cần khuyến khích mô hình “mỗi hộ dân là một hướng dẫn viên”. Khi mỗi người dân đều có kỹ năng giới thiệu văn hóa, kể chuyện bản địa, giao tiếp thân thiện, trải nghiệm du khách sẽ chân thực và sinh động hơn.

Song song với đó, nên hình thành các hợp tác xã hoặc doanh nghiệp xã hội du lịch cộng đồng, trong đó cộng đồng vừa là cổ đông vừa là người quản lý. Mô hình này giúp phân phối lợi ích công bằng, tăng khả năng tự chủ và bảo đảm sự gắn bó lâu dài giữa kinh tế - văn hóa - môi trường.

Ngoài ra, các trường đại học, viện nghiên cứu cần tăng cường chương trình thực tập, nghiên cứu và hỗ trợ khởi nghiệp du lịch cộng đồng cho thanh niên địa phương, tạo nguồn nhân lực trẻ có tri thức và sáng tạo.

Ba là, phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng, sáng tạo và gắn với văn hóa bản địa.

Đặc trưng lớn nhất của du lịch cộng đồng Tây Bắc là sự đa dạng về văn hóa tộc người và cảnh quan thiên nhiên độc đáo. Vì vậy, phát triển sản phẩm phải dựa trên nguyên tắc “mỗi bản - một sản phẩm du lịch”, “mỗi dân tộc - một trải nghiệm khác biệt”.

Các địa phương cần tập trung xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng theo chủ đề:

- Du lịch nông nghiệp (hái chè, hái dâu, chăm sóc bò sữa tại Mộc Châu);

- Du lịch sinh thái (leo Fansipan, đi bộ xuyên bản, ngắm ruộng bậc thang Mù Cang Chải, tham quan hang động Pà Cò - Mai Châu);

- Du lịch văn hóa - tâm linh (lễ hội Gầu Tào, Xên bản, Then, Tết Nhảy);

- Du lịch ẩm thực dân tộc (xôi ngũ sắc, rượu ngô, thắng cố, cá suối nướng);

- Du lịch thủ công - sáng tạo (dệt thổ cẩm, làm nhạc cụ, làm giấy dó, nhuộm chàm).

Bên cạnh đó, cần khuyến khích sáng tạo sản phẩm mới phù hợp xu hướng thị trường: tour kể chuyện văn hóa, tour nghệ nhân dân gian, tour “sống như người bản địa”, hoặc tour du lịch học tập (edu-tourism) dành cho học sinh, sinh viên, người nước ngoài.

Việc gắn kết du lịch cộng đồng với chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) là hướng đi hiệu quả, tạo chuỗi giá trị khép kín giữa du lịch - nông sản - văn hóa - nghề truyền thống. Sản phẩm du lịch không chỉ là “điểm đến” mà còn là “câu chuyện văn hóa sống động” do chính cộng đồng sáng tạo và bảo tồn.

Bốn là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quảng bá, quản lý và trải nghiệm du lịch cộng đồng.

Chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu của ngành du lịch toàn cầu. Đối với Tây Bắc - khu vực địa hình phức tạp, dân cư phân tán - ứng dụng công nghệ số không chỉ giúp quảng bá hiệu quả mà còn nâng cao năng lực tự quản và giảm chi phí trung gian.

Trước hết, các địa phương cần xây dựng “Bản đồ số du lịch cộng đồng Tây Bắc”, tích hợp dữ liệu về địa điểm, dịch vụ lưu trú, homestay, ẩm thực, lễ hội, sản phẩm thủ công và tuyến du lịch. Bản đồ số có thể kết nối với nền tảng quốc gia về du lịch thông minh do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý, giúp du khách dễ dàng tra cứu, đặt phòng, thanh toán trực tuyến.

Thứ hai, cần triển khai ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR/AR) trong giới thiệu không gian văn hóa bản địa, tạo trải nghiệm số trước chuyến đi. Ví dụ, du khách có thể “thử” mặc trang phục người Thái, tham quan ruộng bậc thang Mù Cang Chải hay nghe khèn Mông qua không gian 3D.

Thứ ba, mỗi điểm du lịch cộng đồng cần có website, fanpage, mã QR để cung cấp thông tin đa ngữ, tiếp nhận phản hồi, quảng bá sản phẩm OCOP. Các nhóm thanh niên bản địa có thể đảm nhận vai trò quản trị truyền thông, làm video ngắn, ảnh 360 độ giới thiệu quê hương, qua đó vừa quảng bá, vừa tạo việc làm mới.

Thứ tư, cần ứng dụng công nghệ số trong quản lý du lịch: thống kê lượng khách, đánh giá hài lòng, kiểm soát rác thải và năng lượng. Số hóa dữ liệu sẽ giúp chính quyền theo dõi hiệu quả, ra quyết định chính xác, đồng thời minh bạch hóa lợi ích cho cộng đồng.

Năm là, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc gắn với du lịch cộng đồng.

Văn hóa là linh hồn của du lịch cộng đồng Tây Bắc. Không có văn hóa, du lịch chỉ còn là hoạt động thương mại đơn thuần. Vì vậy, bảo tồn văn hóa không chỉ là nhiệm vụ văn hóa mà còn là yếu tố sống còn của phát triển bền vững.

Các địa phương cần xây dựng kế hoạch bảo tồn di sản phi vật thể gắn với du lịch, đặc biệt là lễ hội, nghệ thuật dân gian, nghề thủ công, kiến trúc truyền thống. Cần tránh xu hướng “đồng phục hóa” - biến mọi bản làng giống nhau về không gian và biểu diễn. Mỗi bản, mỗi dân tộc phải giữ bản sắc riêng, kể câu chuyện riêng.

Nhà nước cần hỗ trợ nghệ nhân, già làng, trưởng bản truyền dạy lại nghi lễ, nghề truyền thống cho thế hệ trẻ; xây dựng bảo tàng cộng đồng hoặc không gian trưng bày văn hóa tộc người tại các điểm du lịch. Đồng thời, lồng ghép giáo dục văn hóa truyền thống trong trường học, để lớp trẻ hiểu và tự hào về di sản của mình.

Một khía cạnh khác là chống thương mại hóa văn hóa. Việc biến lễ hội thành show diễn, biến nhà sàn thành nhà nghỉ bê tông là biểu hiện của “phi văn hóa hóa” du lịch. Chính quyền cần quy định chặt chẽ về phục dựng lễ hội, trang phục, ẩm thực, đảm bảo tính nguyên bản và sự tôn trọng giá trị tinh thần của cộng đồng.

Sáu là, phát triển hạ tầng, cơ sở vật chất và môi trường du lịch xanh.

Hạ tầng là “đòn bẩy” của du lịch cộng đồng. Nhiều bản du lịch ở Tây Bắc vẫn gặp khó khăn về giao thông, điện, nước, internet. Do đó, cần ưu tiên đầu tư đường giao thông liên bản, cầu treo dân sinh, trạm cấp nước, xử lý rác thải và vệ sinh môi trường theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.

Bên cạnh đó, các mô hình du lịch cộng đồng cần áp dụng tiêu chuẩn “xanh”:

- Sử dụng năng lượng tái tạo (năng lượng mặt trời, biogas);

- Phân loại và tái chế rác thải tại nguồn;

- Hạn chế nhựa dùng một lần;

- Khuyến khích du lịch “carbon thấp” (xe đạp, đi bộ, cano điện);

- Trồng cây xanh, bảo tồn rừng đầu nguồn.

Việc xây dựng môi trường du lịch xanh không chỉ giảm thiểu tác động khí hậu mà còn nâng cao hình ảnh “du lịch trách nhiệm”, phù hợp với xu thế quốc tế. Như UNWTO (năm 2019) khẳng định: “Du lịch cộng đồng bền vững là khi du khách rời đi mà môi trường và văn hóa địa phương vẫn nguyên vẹn, thậm chí tốt hơn trước khi họ đến”7.

Bảy là, thúc đẩy liên kết vùng, hợp tác công - tư và hội nhập quốc tế.

Du lịch cộng đồng Tây Bắc chỉ thực sự bền vững khi có sự liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh, giữa Nhà nước - doanh nghiệp - cộng đồng, và giữa Tây Bắc với khu vực, quốc tế.

Cần tăng cường liên kết vùng giữa sáu tỉnh Tây Bắc với Hà Nội, Lào Cai, Hà Giang, Phú Thọ để hình thành “chuỗi hành trình Tây Bắc” - từ thủ đô đến các bản làng, di sản, điểm sinh thái. Liên kết này giúp chia sẻ dữ liệu, quảng bá chung, tránh cạnh tranh nội vùng.

Thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư hạ tầng, đào tạo, xúc tiến du lịch. Doanh nghiệp có thể đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, còn Nhà nước tạo khung pháp lý và ưu đãi thuế.

Mở rộng hợp tác quốc tế với các nước có kinh nghiệm phát triển du lịch cộng đồng thành công như Thái Lan, Indonesia, Nepal. Việc trao đổi chuyên gia, đào tạo và quảng bá chung trong khuôn khổ ASEAN sẽ giúp Tây Bắc học hỏi và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị du lịch toàn cầu.

Cần tăng cường xúc tiến du lịch ra thế giới, xây dựng thương hiệu “Tây Bắc - Vùng bản sắc và xanh”. Các chiến dịch quảng bá qua nền tảng số, hội chợ quốc tế, phim tài liệu, influencer du lịch sẽ góp phần đưa hình ảnh bản làng Tây Bắc trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách quốc tế yêu thích trải nghiệm văn hóa.

Tám là, tăng cường công tác quản lý, giám sát và đánh giá hiệu quả phát triển du lịch cộng đồng.

Một hệ thống du lịch cộng đồng bền vững không thể thiếu cơ chế quản lý, giám sát và đánh giá định kỳ. Các tỉnh Tây Bắc cần thành lập Ban điều phối du lịch cộng đồng vùng, có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, hỗ trợ kỹ thuật và điều phối liên vùng.

Cần xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá du lịch cộng đồng bền vững, bao gồm các tiêu chí về kinh tế (thu nhập, việc làm), xã hội (bình đẳng giới, giáo dục, văn hóa), môi trường (rác thải, năng lượng), và mức độ hài lòng của du khách. Báo cáo đánh giá phải được công khai hàng năm, làm cơ sở điều chỉnh chính sách.

Ngoài ra, nên tăng cường sự tham gia của tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong giám sát, phản biện và bảo vệ quyền lợi của người dân. Khi cộng đồng được trao quyền thật sự, du lịch cộng đồng sẽ trở thành mô hình tự vận hành, tự bảo vệ và phát triển bền vững.

3. Kết luận

Du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc trong hơn hai thập niên qua đã chứng minh sức sống bền bỉ và khả năng lan tỏa mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền núi phía Bắc. Từ những mô hình khởi đầu đơn giản như Bản Lác (Hòa Bình), Tả Van (Lào Cai) hay Hua Tạt (Sơn La), đến nay, du lịch cộng đồng đã trở thành một phương thức phát triển tổng hợp kết hợp giữa kinh tế, văn hóa, môi trường và xã hội. Nó không chỉ đem lại thu nhập ổn định cho hàng chục nghìn hộ dân, mà còn góp phần khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống, tăng cường đoàn kết cộng đồng và thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rõ rệt, du lịch cộng đồng Tây Bắc vẫn đang đứng trước không ít thách thức: hạ tầng chưa đồng bộ, kỹ năng cộng đồng còn hạn chế, môi trường bị tác động, văn hóa bản địa có nguy cơ bị thương mại hóa, và đặc biệt là thiếu cơ chế điều phối vùng hiệu quả. Điều này đòi hỏi một tầm nhìn phát triển mới, mang tính chiến lược, bền vững và nhân văn hơn, trong đó cộng đồng phải thực sự được trao quyền làm chủ, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, và doanh nghiệp giữ vai trò hỗ trợ, liên kết, dẫn dắt thị trường.

Trong giai đoạn 2025 - 2035 và hướng tới tầm nhìn đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước, phát triển du lịch cộng đồng Tây Bắc cần đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế xanh, kinh tế tri thức và chuyển đổi số quốc gia. Mục tiêu là xây dựng Tây Bắc trở thành vùng du lịch sinh thái - văn hóa hàng đầu Đông Nam Á, nơi mỗi bản làng là một “không gian văn hóa sống”, nơi du khách đến không chỉ để chiêm ngưỡng cảnh quan mà còn để học, để hiểu và để sống cùng cộng đồng bản địa.

Để hiện thực hóa mục tiêu đó, cần tiếp tục triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm. Tất cả các giải pháp phải được vận hành trong một hệ sinh thái du lịch cộng đồng mà ở đó người dân là trung tâm, văn hóa là nền tảng, thiên nhiên là nguồn lực, và công nghệ là công cụ.

Phát triển du lịch cộng đồng Tây Bắc không chỉ là nhiệm vụ phát triển ngành du lịch, mà còn là chiến lược phát triển con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới. Khi mỗi bản làng trở thành biểu tượng của bản sắc, khi mỗi người dân trở thành sứ giả của văn hóa và khi mỗi sản phẩm du lịch mang trong mình tinh thần gìn giữ thiên nhiên, Tây Bắc sẽ thật sự trở thành vùng đất của phát triển bền vững, hài hòa giữa con người - văn hóa - thiên nhiên, đóng góp thiết thực vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã xác định trong tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI.


1, 3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Hướng dẫn phát triển du lịch cộng đồng tại Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Văn hóa Dân tộc, 2022.

2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai: Báo cáo tình hình phát triển du lịch năm 2024.

4. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La: Báo cáo tình hình phát triển du lịch năm 2024.

5. Tổng cục Du lịch Việt Nam: Niên giám thống kê du lịch Việt Nam 2024, Hà Nội.

6. Ủy ban Dân tộc: Báo cáo chuyên đề giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số năm 2024, Hà Nội.

7. UNWTO: Community-Based Tourism for Sustainable Development, Madrid: United Nations World Tourism Organization, 2019.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin