Phát huy vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam

CT&PT - Phát triển hệ thống chính sách xã hội là nhiệm vụ chiến lược, là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước Việt Nam; các cấp, các ngành, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển hệ thống chính sách xã hội đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phong phú của các giai tầng xã hội cần phát huy vai trò của các chủ thể: Nhà nước, thị trường, xã hội đặt trong mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Trên cơ sở phân tích làm rõ mối quan hệ và vai trò của các chủ thể, bài viết gợi mở một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của “Nhà nước mạnh, thị trường hiệu quả và xã hội năng động, sáng tạo” trong phát triển hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam.

chinh-sach-xa-hoi-ctpt-1688032194.jpg
Ngày 30/3/2023, tại trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư họp, cho ý kiến về Đề án Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 10/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020.

1. Mối quan hệ và vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển hệ thống chính sách xã hội

Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là một trong các mối quan hệ lớn, cơ bản cần nhận thức và giải quyết đúng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Bản chất của mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ giữa vai trò, chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước với các quy luật vận động của thị trường và nhu cầu, sự tham gia của “chủ thể xã hội” trong thực hiện các mục tiêu phát triển của đất nước. Thị trường muốn hiệu quả, xã hội muốn năng động đều cần có sự can thiệp, điều hành kịp thời, đúng mức của Nhà nước. Và ngược lại, Nhà nước muốn phát huy vai trò cần chú trọng đến quy luật vận động khách quan của thị trường và sự tham gia tích cực, chủ động của “chủ thể xã hội”.

Nhà nước có vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống chính sách xã hội của đất nước, thể hiện trên các mặt: (1) thực hiện quản lý nhà nước về phát triển hệ thống chính sách xã hội; (2) nghiên cứu, ban hành khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển hệ thống chính sách xã hội; (3) nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực xã hội, khuyến khích, huy động sự tham gia của tất cả các chủ thể vào thực hiện mục tiêu phát triển hệ thống chính sách xã hội; (4) tổ chức, điều hành thực hiện hệ thống chính sách xã hội; (5) nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách về hợp tác và hội nhập quốc tế về phát triển hệ thống chính sách xã hội; (6) chủ thể cung cấp nguồn lực chủ yếu, lớn nhất cho việc phát triển hệ thống chính sách xã hội.

Vai trò của thị trường trong phát triển hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam thể hiện trên các phương diện: (1) tạo môi trường để đa dạng hóa các thành phần, các chủ thể tham gia đầu tư và thực hiện trách nhiệm xã hội liên quan đến phát triển hệ thống chính sách xã hội; (2) hình thành thị trường hàng hóa dịch vụ xã hội, bảo hiểm thương mại... góp phần nâng cao hiệu quả phát triển hệ thống chính sách xã hội; (3) thúc đẩy đổi mới và phát triển các mô hình thực hiện chính sách xã hội hiện đại, năng động, sáng tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội; (4) tạo động lực thúc đẩy các chủ thể liên quan đến chính sách xã hội năng động, trách nhiệm, chủ động, tự nguyện, tự giác; (5) thúc đẩy hội nhập, hợp tác quốc tế về phát triển hệ thống chính sách xã hội.

Vai trò của “chủ thể xã hội” trong phát triển hệ thống chính sách xã hội được thể hiện trên các khía cạnh: (1) đa dạng hóa các chủ thể tham gia và cơ chế cung cấp dịch vụ trong thụ hưởng chính sách xã hội; (2) đa dạng hóa các chủ thể cung cấp tài chính, nguồn lực cho hoạt động thực thi chính sách xã hội; (3) trở thành một “đối tác” chủ động, tích cực với Nhà nước và thị trường trong tham gia phát triển và tổ chức hiệu quả hệ thống chính sách xã hội; (4) đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa nhu cầu và nâng cao chất lượng thụ hưởng hệ thống chính sách xã hội.

Nhà nước pháp quyền, dân chủ lấy lợi ích công cộng làm mục tiêu cao nhất cho tổ chức và hoạt động của mình thông qua tạo lập môi trường cạnh tranh, bình đẳng và trách nhiệm xã hội giữa các chủ thể khác nhau trong thực hiện các mục tiêu lợi ích, giá trị khác nhau. Tuy nhiên, Nhà nước thường gặp giới hạn khi xử lý mối quan hệ giữa nhóm xã hội có lợi thế và nhóm xã hội bất lợi thế, giữa vùng thuận lợi và khó khăn trong tiếp cận hệ thống chính sách xã hội...Vì vậy, các tổ chức xã hội đóng vai trò như là cơ chế bổ sung cho những giới hạn của Nhà nước nhằm bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội trong phát triển hệ thống chính sách xã hội.

Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có xu hướng tối đa hóa lợi nhuận, xu hướng độc quyền, hạn chế cạnh tranh, hy sinh các lợi ích công cộng, do đó dễ gây nên các hệ quả xã hội tiêu cực (ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo, gian lận thương mại...). Vì vậy, cần đến vai trò của Nhà nước để tạo môi trường lành mạnh, xác định trách nhiệm xã hội của mọi chủ thể liên quan đến hệ thống chính sách xã hội.

“Chủ thể xã hội” có xu hướng theo đuổi các lợi ích cục bộ của các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội... mà giữa chúng nhiều khi xung đột nhau và có thể xung đột với lợi ích chung của toàn xã hội trong quá trình phát triển hệ thống chính sách xã hội. Do đó, nếu thiếu vai trò trung tâm của Nhà nước trong hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội sẽ gây nên tình trạng cát cứ, cục bộ, lợi ích nhóm... Trong khi đó, nếu thiếu vận dụng nguyên tắc thị trường trong các hoạt động của tổ chức xã hội thì sẽ đẩy các tổ chức rơi vào trạng thái hành chính hóa, thiếu năng động, thiếu nguồn lực tài chính... thỏa mãn nhu cầu nâng cao chất lượng và bao trùm của hệ thống chính sách xã hội. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy, “chủ thể xã hội” theo đuổi giá trị xã hội và quyền lực xã hội làm động lực phát triển, có ý nghĩa cân bằng với Nhà nước vốn dựa vào sức mạnh của quyền lực, ý chí và sức mạnh của chính trị; đồng thời, cân bằng với doanh nghiệp vốn dựa vào sức mạnh của tài chính, tiền tệ”1.

Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nêu rõ: “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”2. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn”, trong đó có mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội”3.

Thực tiễn cho thấy, trong quá trình phát triển, các quốc gia đều phải nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, chính sách phù hợp nhằm phát huy các ưu điểm, đồng thời hạn chế những rủi ro, thất bại của cả ba thành tố trên trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển hệ thống chính sách xã hội nói riêng.  Trong đó, “nhà nước đóng vai trò chủ đạo kết hợp với cơ chế thị trường, cơ chế tự chủ của các chủ thể tham gia hoặc liên quan đến thực thi hệ thống chính sách xã hội phát triển theo định hướng của Nhà nước, có hiệu quả và chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới, bảo đảm tốt hơn công bằng và bình đẳng xã hội”4.

2. Một số vấn đề đặt ra trong thực hiện vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội đối với phát triển hệ thống chính sách xã hội

Một là, Nhà nước không thể có đủ nguồn lực để thực hiện đầu tư “bao cấp” cho nhu cầu ngày càng cao của mọi hoạt động, nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội. Hơn nữa, cơ chế, chính sách hiện nay chưa thực sự tạo được động lực tham gia của các chủ thể trong xã hội đối với việc thực hiện và phát triển hệ thống chính sách xã hội bảo đảm chất lượng và hiệu quả. Do đó, so với yêu cầu đặt ra, nhìn chung hệ thống chính sách xã hội của Việt Nam vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập và chưa theo kịp nhu cầu của các nhóm, giai tầng xã hội và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, miền.

Bên cạnh đó, quản lý nhà nước chưa điều chỉnh kịp thời với quá trình xã hội hóa để có thể phát triển hệ thống chính sách xã hội phù hợp, hiệu quả. Chẳng hạn, “trong lĩnh vực dịch vụ y tế, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng thể chế cho phát triển thị trường thiết bị y tế, sản phẩm dược vẫn còn chưa hoàn thiện, nhất là thể chế về cạnh tranh và chống độc quyền trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh dược phẩm, thiết bị y tế; thể chế về giá thuốc, thiết bị, vật tư y tế; thể chế về phí dịch vụ y tế. Cùng với đó, vấn đề đặt ra hiện nay còn là phải xây dựng thể chế hợp lý cho thúc đẩy đối tác công tư, bảo đảm cho tư nhân yên tâm đầu tư hợp tác với các bệnh viện công lập. Thể chế giao quyền tự chủ cho bệnh viện công lập còn bất cập; thể chế cho phát triển bệnh viện phi lợi nhuận vẫn còn bỏ trống, trong khi đây là xu thế tất yếu, là hướng đi của tương lai. Quản lý, kiểm định chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh của Nhà nước còn nhiều bất cập, hạn chế”5

Hai là, trong không ít trường hợp cụ thể, Nhà nước chưa làm hết vai trò, hoặc lấn sang vai trò của các chủ thể khác trong hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội; trong khi đó doanh nghiệp có xu hướng phó mặc việc hoạch định và thực hiện chính sách xã hội cho Nhà nước và xã hội. Nhà nước chưa thật sự trở thành “trọng tài, nhạc trưởng, trụ cột” cho các chủ thể liên quan đến hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội. Việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách xã hội chưa được thiết lập một cách chính thức. Nhà nước còn hạn chế trong kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị trường phát huy vai trò trong tham gia hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội.

Ba là, cơ chế thị trường trong phát triển hệ thống chính sách xã hội bộc lộ nhiều hạn chế, chủ yếu là chưa có nhiều doanh nghiệp sẵn sàng tham gia một cách thường xuyên, trách nhiệm và chuyên nghiệp vào các hoạt động thực thi chính sách xã hội. Đặc biệt, khi vận dụng cơ chế thị trường nếu thiếu sự quản lý, điều tiết có hiệu quả của Nhà nước sẽ nảy sinh nhiều tiêu cực, trục lợi... trong thực thi chính sách xã hội của chủ thể doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức trong cộng đồng.

Cơ chế thị trường áp dụng trong thực thi hệ thống chính sách xã hội chưa tính toán được đầy đủ tính chất đặc thù của các lĩnh vực xã hội, do đó có nguy cơ làm gia tăng bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ xã hội. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế, đang có xu hướng thị trường hóa, khiến cho một bộ phận người dân thiếu cơ hội tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh; còn tình trạng độc quyền, thiếu công khai, minh bạch trong cung ứng thuốc, thiết bị y tế, đẩy giá thuốc lên cao, làm méo mó thị trường thuốc chữa bệnh và thiết bị y tế trong mua sắm công trang bị y tế, thuốc chữa bệnh cho các bệnh viện. Liêm chính kinh doanh, đạo đức xã hội trong kinh doanh của doanh nghiệp thuộc lĩnh vực y tế chưa được đề cao để góp phần hóa giải mặt trái, “khuyết tật” của kinh tế thị trường6.

Bốn là, “chủ thể xã hội” có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và thực thi hệ thống chính sách xã hội. Tuy nhiên, vai trò này chỉ được thực hiện có hiệu quả cao khi được chế định rõ bằng khung khổ pháp luật, trong đó quy định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích của từng chủ thể tham gia hoạt động phát triển và thực thi hệ thống chính sách xã hội trong tương quan với lợi ích của xã hội và với sự quản lý của Nhà nước và giám sát của cộng đồng. Tham dự của “chủ thể xã hội” vào phát triển và thực thi hệ thống chính sách xã hội vẫn còn hạn chế, chưa phát huy hết nguồn lực, tiềm năng, dư địa.

Nguồn lực trong nhân dân chưa được khai thác đầy đủ để phát triển và thực thi có hiệu quả hệ thống chính sách xã hội. “Nhận thức và năng lực hoạt động của các tổ chức xã hội trong tham gia hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội còn một số hạn chế. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức xã hội không rõ ràng, vừa chịu sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, vừa có nhiệm vụ giám sát, phản biện vai trò của Đảng và Nhà nước. Do chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng nên các tổ chức xã hội ở Việt Nam hoạt động còn thụ động, hiệu quả không cao. Trong xã hội còn không ít biểu hiện mất dân chủ, hoặc dân chủ cực đoan; việc thực hành dân chủ có nơi, có lúc còn mang tính hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân còn hạn chế”7.

Năm là, không ít doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức xã hội tìm kẽ hở của luật pháp để trục lợi, trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm đối với Nhà nước, xã hội trong góp phần thúc đẩy hệ thống chính sách xã hội phát triển. Bên cạnh đó, phẩm chất, năng lực của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ liên quan đến xây dựng và thực thi hệ thống chính sách còn bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhu cầu, yêu cầu của xã hội. Việc tổ chức thực thi chính sách xã hội của một bộ phận cán bộ, công chức chưa chuyên nghiệp, còn hiện tượng trục lợi, gây bức xúc cho người dân. Điều này làm gia tăng chi phí, thậm chí làm biến dạng một số khía cạnh trong mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội.

Bảy là, nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và người dân về mối quan hệ và vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong thực hiện mục tiêu phát triển hệ thống chính sách xã hội còn hạn chế. “Trong khi đó, hệ thống chính sách, pháp luật còn chậm tích hợp, sửa đổi, hoàn thiện, thiếu nhất quán trong triển khai thực hiện; tổ chức bộ máy, nhân lực chưa đồng bộ và chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao; phương thức quản lý, quản trị nhà nước trong các lĩnh vực xã hội chậm hiện đại hóa; chậm ứng dụng công nghệ trong quản lý và phát triển xã hội; chưa phân định rõ vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, trách nhiệm của xã hội và sự tham gia của người dân”8.

3. Một số định hướng phát huy vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển hệ thống chính sách xã hội

Một là, việc xác định và kiên định thực hiện mục tiêu cốt lõi trong xây dựng, phát triển hệ thống chính sách xã hội từ nay đến năm 2045 cần hướng đến toàn dân, bao trùm và toàn diện; đáp ứng các nhu cầu an sinh xã hội và dịch vụ xã hội cho nhân dân, tạo cơ hội phát triển toàn diện cho mọi người dân và không để ai bị bỏ lại phía sau; hướng đến bảo đảm sự hài lòng, hạnh phúc cho mọi người dân; tạo nền tảng xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng, bình đẳng, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau; đáp ứng mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao định hướng chủ nghĩa xã hội.

Hai là, cần thống nhất trong nhận thức, tư duy và hành động của hệ thống chính trị và xã hội về xử lý mối quan hệ và phát huy vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển hệ thống chính sách xã hội, tức là cần tìm ra mức độ, nội dung gắn kết, tác động giữa ba thành tố để bảo đảm phát triển hệ thống chính sách xã hội bền vững.

Việc xử lý mối quan hệ này có vai trò quan trọng của Nhà nước, thực hiện thông qua việc nhận diện bản chất, mức độ của mối quan hệ và từ đó đưa ra các cơ chế, chính sách, giải pháp xử lý mối quan hệ này một cách phù hợp, đúng đắn.

Cụ thể là: (1) giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với các đặc điểm, yêu cầu phát triển hệ thống chính sách xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội trên cơ sở phát huy các chức năng và tiềm năng, lợi thế, đồng thời hạn chế những khuyết tật vốn có của từng khu vực, chủ thể trong phát triển hệ thống chính sách xã hội của đất nước; (3) giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội gắn liền với hoàn thiện đồng bộ các thể chế tổ chức nhà nước, thể chế kinh tế, thể chế xã hội; (4) xác định sự phối hợp giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là xu hướng khách quan trong phát triển hệ thống chính sách xã hội hiện đại.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển hệ thống chính sách xã hội với trọng tâm là xác định đúng vai trò của Nhà nước, thị trường (cơ chế thị trường) và xã hội. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế vận hành đồng bộ, bảo đảm phát huy và kết hợp hiệu quả những mặt mạnh của Nhà nước với những mặt tích cực của cơ chế thị trường, vai trò tham gia tích cực, chủ động, trách nhiệm, sáng tạo của các chủ thể trong xã hội. Đồng thời, hạn chế được những bất cập, khiếm khuyết của Nhà nước, cơ chế thị trường, của các chủ thể trong xã hội, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống chính sách xã hội trong giai đoạn mới. Đẩy mạnh quá trình thể chế hóa vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội, đồng thời hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa các chủ thể.

Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý để phát huy hiệu quả vai trò của thành tố “chủ thể xã hội” trong mối quan hệ với Nhà nước và thị trường. Tạo lập đầy đủ cơ chế bảo đảm vai trò liên kết, phối hợp hoạt động để giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên,... bảo đảm thực hiện chức năng phản biện dự thảo luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước; giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.

Chủ thể cốt yếu có chức năng, nhiệm vụ xây dựng thể chế cũng như điều hành thực thi hệ thống chính sách xã hội chính là đội ngũ cán bộ, công chức. Do vậy, chất lượng, năng lực, tinh thần trách nhiệm... của đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng trong bảo đảm cho mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội được xử lý hài hòa trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội. Cần từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trong hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội, để có thể nắm bắt được chính xác các vấn đề của xã hội, đưa ra được các chính sách phù hợp, đúng đắn, tạo điều kiện phát huy vai trò của thị trường và xã hội tham gia phát triển hệ thống chính sách xã hội. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, công chức, các cơ quan công quyền cần tránh giáo điều, bảo thủ, chủ quan, duy ý chí trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội thông qua việc thường xuyên lắng nghe, chịu sự giám sát, phản biện của các đoàn thể, nhân dân đối với quá trình phát triển của hệ thống chính sách xã hội.

Xây dựng bộ máy quản lý tinh gọn, phân cấp, trao quyền, xã hội hóa có chọn lọc nhiều lĩnh vực chính sách xã hội, thúc đẩy dân chủ ở cơ sở nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản lý nhà nước và phát triển hệ thống chính sách xã hội. Phát huy vai trò và sự chủ động tham gia của người dân, các tổ chức xã hội trong quá trình quản lý nhà nước và phát triển hệ thống chính sách xã hội.

Bốn là, hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ. Hệ thống thể chế, pháp luật và quản lý cần tạo khuôn khổ cho các tổ chức xã hội tham gia tư vấn, giám định và phản biện các chính sách xã hội kịp thời, hiệu quả hơn. Cần phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nhằm bổ sung cho giới hạn của Nhà nước và hạn chế “khuyết tật” của thị trường; dựa trên hệ thống giá trị xã hội công bằng, bình đẳng, phúc lợi cho người dân..., bởi đó chính là những giá trị chung và là cơ sở cho hợp tác, đối tác giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong hoạch định và thực hiện hệ thống chính sách xã hội hiệu quả. Từ đó, các tổ chức xã hội có khả năng cung ứng một số dịch vụ xã hội phi lợi nhuận nhận ủy quyền từ Nhà nước; bảo vệ quyền lợi của các nhóm thiểu số, yếu thế trong xã hội trong thụ hưởng chính sách trước các nguy cơ, thách thức bởi “thất bại” của thị trường.

Năm là, thúc đẩy tư duy và hành động chủ động, kịp thời nhằm giải quyết mâu thuẫn trong sự phát triển không tương thích giữa 3 thành tố Nhà nước, thị trường và xã hội trong hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội. Phát huy vai trò của 3 thành tố tốt nhất khi bản thân chúng có sự phát triển hoàn thiện, Nhà nước phải mạnh, thị trường phát triển và xã hội cũng được phát triển tương ứng. Bảo đảm trách nhiệm và lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình giải quyết cụ thể mối quan hệ giữa các thành tố nhằm khai thác được sức mạnh tổng hợp các nguồn lực, từ nguồn lực nhà nước, nguồn lực thị trường và nguồn lực trong xã hội trong phát triển hệ thống chính sách xã hội.

Sáu là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thị trường trong tham gia hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách xã hội. Đặc biệt chú ý, cần thể chế hóa, tạo dư địa cho các tổ chức xã hội phát huy mạnh mẽ năng lực của mình trong quan hệ với Nhà nước và thị trường. Cơ chế này phải dựa trên nguyên tắc phục tùng lợi ích phát triển chung của toàn xã hội. Trong cơ chế này, Nhà nước, xã hội và doanh nghiệp là những chủ thể cùng có vai trò, trách nhiệm trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện kịp thời, hiệu quả hệ thống chính sách xã hội9.

Bảy là, tiếp tục hiện đại hóa hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội. Rà soát, tích hợp chính sách xã hội, giảm chồng chéo, trùng lặp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và tổ chức thực hiện chính sách xã hội; thống nhất số hóa cơ sở dữ liệu; phát triển hệ thống thông tin quản lý và các ứng dụng; xây dựng cơ chế quản lý, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu và thông tin10.

Tám là, nghiên cứu hình thành và phát triển mô hình hệ thống chính sách xã hội định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới. Trong đó, cần tập trung hướng đến các mục tiêu: (1) bảo đảm sự lãnh đạo và quản lý toàn diện, kịp thời, tập trung, hiệu quả của Đảng và Nhà nước; (2) trọng tâm của hệ thống chính sách xã hội là chuyển từ số lượng sang chất lượng; từng bước thực hiện tư duy và mô hình quản lý phát triển xã hội đối với hệ thống chính sách xã hội; (3) bảo đảm mối quan hệ và phát huy tối đa vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội; (4) có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng và hiệu quả với hệ thống chính sách kinh tế; (5) bảo đảm tính dự báo xã hội cao, chủ động, phù hợp và thích ứng linh hoạt với bối cảnh xã hội biến đổi nhanh, bất định, khó lường và nhu cầu ngày càng đa dạng; (6) bảo đảm tính ưu việt, tiến bộ của chính sách xã hội so với các nước trên thế giới, kể cả những nước tư bản phát triển; (7) bảo đảm sự cân bằng, đồng thời hướng tới thực hiện các mục tiêu cốt lõi: tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và quản lý, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội; (8) góp phần quan trọng hiện thực hóa mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, định hướng xã hội chủ nghĩa.


1, 5, 6. Nguyễn Chí Hiếu: Nghiên cứu mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội, Đề tài cấp Nhà nước, Mã số KX.01.50/16-20, Tạp chí Cộng sản, 2021.

2. Ban Chấp hành Trung ương: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 28.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 119.

4, 8. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Chí Hiếu: Nhận diện mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/820491/nhan-dien-moi-quan-he-ba-ben-giua-nha-nuoc%2C-thi-truong-va-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.aspx.

7, 9, 10. Vũ Văn Hà: Về mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội thời gian qua, https://tcnn.vn/news/detail/43184/Ve-moi-quan-he-giua-nha-nuoc---thi-truong---xa-hoi-thoi-gian-qua.html.

Theo Tạp chí Lý luận chính trị

Phạm Hương Tổng hợp

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin