Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự: Một số vướng mắc, bất cập và đề xuất

Nguyễn Thu Hằng

CT&PT - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Trong thời gian qua, hoạt động của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã đạt được những kết quả tích cực. Song, bên cạnh đó, các quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự  ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, chất lượng đội ngũ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa cao. Những hạn chế đó là rào cản lớn trong thi hành pháp luật, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.

1. Vướng mắc trong thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự tại các tòa án

Thứ nhất, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn gặp khó khăn trong việc đề nghị tòa án công nhận tư cách tham gia giải quyết các vụ việc dân sự, chưa được tạo điều kiện trong quá trình tố tụng

Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi quy định theo hướng tiến bộ hơn, song, có thể thấy, chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể về thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP, ngày 13/01/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng không có mục nào hướng dẫn việc thực hiện thủ tục theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngoài ra, các trường hợp từ chối đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong thủ tục này cũng chưa có điều khoản quy định cụ thể (thủ tục đăng ký bào chữa đối với người bào chữa theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể vấn đề này), dẫn đến việc các cơ quan tố tụng thực hiện một cách tùy nghi khi làm thủ tục đăng ký cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, gây khó khăn cho việc tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Quy định này đã làm thủ tục giải quyết vụ án dân sự xuất hiện cơ chế “xin - cho” trong tố tụng dân sự. Thực tế cho thấy, hiện nay, vẫn còn một số tòa án thực hiện việc cấp giấy chứng nhận cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự cũ mà chưa thực hiện thủ tục vào sổ đăng ký theo đúng quy định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; còn chậm trễ trong việc làm thủ tục cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng; số vụ án dân sự bảo đảm thời gian thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật còn rất ít, gây khó khăn cho việc triển khai áp dụng quy định mới của các tòa án. Có thể thấy rõ thực tế này qua vụ án sau:

Ngày 09/9/2020, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 50/2018/TLST-KDTM, ngày 01/10/2018 về “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”. Hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày 02/11/2018, Văn phòng Luật sư N có văn bản cử luật sư Phạm Văn P là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Đ - bị đơn trong vụ án, nhưng Tòa án không vào sổ đăng ký và xác nhận vào giấy yêu cầu của bị đơn. Ngày 14/7/2020, văn phòng Luật sư N có đơn đề nghị Tòa án chấm dứt tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư Phạm Văn P, do luật sư không thể tiếp tục tham gia tố tụng, đồng thời cũng không cử người khác thay thế. Ngày 15/7/2020, Tòa án có văn bản thông báo cho Công ty Đ biết về việc văn phòng Luật sư N gửi đơn chấm dứt tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Nhưng sau gần hai tháng, ngày 08/9/2020, ông Hồ Mai H - Giám đốc, đại diện theo pháp luật của Công ty Đ mới gửi văn bản xác nhận đồng ý với việc chấm dứt tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư Phạm Văn P và đề nghị Tòa án xét xử vụ án. Ngay ngày 09/9/2020, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đưa vụ án ra xét xử.

Việc một người vừa làm đại diện theo ủy quyền, vừa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính đương sự đó khi tham gia tố tụng hiện g chưa được quy định tại bất cứ văn bản pháp luật nào. Ở mỗi tư cách, họ đều có quyền và nghĩa vụ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Pháp luật cũng không có quy định cấm trường hợp này, dẫn đến Tòa án lúng túng khi gặp tình huống và khó khăn trong việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho một người mang hai tư cách, khi mà ở “vai” này thì họ có quyền này nhưng ở “vai” kia lại bị hạn chế.

Bên cạnh đó, để bảo đảm sự khách quan trong giải quyết vụ án, việc liệt kê các đối tượng tại điểm d, khoản 1, Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đang công tác trong ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là chưa thực sự phù hợp. Bởi theo Luật Luật sư, những người đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên có quyền trở thành luật sư. Hơn nữa, việc chỉ liệt kê cán bộ, công chức trong ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an là chưa bao quát hết, bởi còn một số cán bộ, công chức, nhân viên công tác trong ngành khác cũng ảnh hưởng đến tính khách quan của việc giải quyết vụ án, chẳng hạn như cơ quan thi hành án; cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn...

Thứ hai, việc tham gia phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm theo thủ tục rút gọn của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn bị hạn chế

Đối với quy định về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn chưa bảo đảm sự thống nhất trong Bộ luật Tố tụng dân sự, chưa đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong thành phần tham gia phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm theo thủ tục rút gọn chỉ đề cập đến việc: “Các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt” (khoản 1, Điều 320 và Điều 324 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Trong khi đó, cũng tại Điều 324 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày nội dung kháng cáo, kháng nghị, tranh luận, đối đáp.

Thứ ba, việc yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn gặp nhiều khó khăn

Trên thực tế, việc thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là do sự bất hợp tác tới từ cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ. Trong khi pháp luật có quy định về quyền xác minh, thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhưng lại không có quy định về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan có liên quan, dẫn tới người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gặp nhiều khó khăn khi thực hiện.

Mặc dù theo quy định tại khoản 6, Điều 76 và khoản 6, Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền “Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình”. Tuy nhiên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ không làm được điều này nếu không có sự phối hợp và tạo điều kiện của các cơ quan đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ. Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp cho đương sự khi nhận được yêu cầu, trường hợp không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do”, nhưng không quy định chế tài pháp lý nếu các chủ thể này không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, hay cung cấp quá thời hạn luật định mà không có lý do chính đáng. Như vậy, khi không có biện pháp, chế tài xử lý, thì dù được đánh giá là mới và tiến bộ so với các quy định cũ, quy định này vẫn không có giá trị thực thi trên thực tế. Điều đáng nói là một khi việc từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chủ yếu được thực hiện bằng lời nói, hành vi mà không được thể hiện qua bất cứ văn bản nào, thì không có căn cứ để đương sự chứng minh cho Tòa án rằng họ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập chứng cứ. “Điển hình là với các thông tin, tài liệu liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, các tài sản chưa được công nhận quyền sở hữu hợp pháp… thì quá trình yêu cầu xác nhận nguồn gốc, xác nhận quá trình sử dụng ổn định lâu dài… vẫn là một bài toán chưa có lời giải” .

Thứ tư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gặp khó khăn trong vấn đề trưng cầu giám định

Trên thực tế, khi giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân, gia đình, nhiều trường hợp cần phải trưng cầu giám định: giám định chữ ký của các hợp đồng, thỏa thuận; xác nhận huyết thống thông qua trưng cầu giám định AND; giám định mức độ thương tích để tiến hành bồi thường ngoài hợp đồng… Nếu Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định chỉ thẩm phán mới có quyền ra quyết định trưng cầu giám định thì Bộ luật Tố tụng dân sựnăm 2015 (Điều 102) đã bổ sung thêm nội dung đương sự có thể tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị tòa án trưng cầu giám định nhưng tòa án từ chối; đương sự phải thực hiện quyền này trước khi tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Trong khi đó, luật không quy định trực tiếp cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền yêu cầu trưng cầu giám định. Điều này gây cản trở chó việc xác minh, thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, vì nếu họ là người am hiểu pháp luật, sẽ biết rõ khi nào cần trưng cầu giám định, đặc biệt là trong những vụ án mà kết luận giám định là chứng cứ quan trọng, nếu thiếu sẽ không giải quyết được vụ án.

Thứ năm, hiện tượng tòa án chưa thực sự coi trọng vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa dân sự vẫn còn tồn tại; việc thực hiện những quy định tiến bộ của Bộ luật Tố tụng dân sự về tranh luận tại một số phiên tòa chỉ mang tính hình thức; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bị hạn chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình

Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sựnăm 2015 về tranh luận chưa tạo điều kiện tối đa để các bên đương sự sử dụng trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chưa có quy định cụ thể về các điều kiện bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ này. Vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trên thực tế còn hạn chế, nhiều khi chưa được các tòa án tôn trọng, thậm chí gây khó khăn cho việc tiếp cận hồ sơ để nghiên cứu của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với nhiều lý do. Ví dụ: việc thực hiện quyền sao chụp tài liệu, chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gặp nhiều khó khăn do tòa án yêu cầu phải làm đơn hoặc yêu cầu làm danh mục tài liệu cần photo. Nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng còn yêu cầu luật sư phải nộp giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư hoặc những giấy tờ khác mà pháp luật không quy định. Trong khi đó, theo Điều 27 Luật Luật sư năm 2012, luật sư chỉ cần xuất trình thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng khi tham gia tố tụng.

Vẫn có những phiên tòa dân sự diễn ra trong tình trạng sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ mang tính hình thức. Tại một số tòa án, nhiều thẩm phán chỉ coi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là yếu tố để bảo đảm sự đầy đủ về mặt thủ tục. “Trong quá trình tham gia tranh tụng, vẫn còn tình trạng luật sư không được tôn trọng. Thẩm phán chủ tọa, nhân danh quyền lực nhà nước có thể tùy tiện ngắt lời luật sư mà không dựa trên một quy định nào”. “Trên thực tế hiện nay, thủ tục tranh luận ở nhiều phiên tòa không được tiến hành hoặc được tiến hành rất đại khái, phiên tòa không khách quan, không có việc tranh tụng thực tế mà việc đó diễn ra một cách “hình thức” và “một số Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa coi phiên tòa chỉ là một hình thức để hợp pháp hóa một bản án đã quyết định trước rồi, quyết định của tập thể Thẩm phán hoặc của Tòa án cấp trên”. Một số bản án, quyết định của tòa án giải quyết các vụ việc dân sự không phản ánh hết quá trình tranh luận tại phiên tòa; tòa án chưa thực sự quan tâm đến yêu cầu, đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Điều này dẫn đến thực tế việc xử án dân sự trong vài năm trở lại đây đã ghi nhận khá nhiều trường hợp luật sư, đương sự khiếu nại về công tác xét xử của tòa. Trong nhiệm kỳ IX (2013 - 2018), Ban bảo vệ quyền lợi luật sư Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội đã tiếp nhận và có văn bản kiến nghị đến cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền 78 vụ việc có dấu hiệu xâm phạm quyền hành nghề của luật sư. Có nói đến một số vụ việc sau:

- Vụ án dân sự thụ lý số 68/2019/TLST-DS, ngày 17/12/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội. Tại phiên tòa sơ thẩm, Ông Nguyễn Trọng H - Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày quan điểm bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn. Tuy nhiên, Bản án số 01/2020/DS-ST, ngày 27/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai không phản ánh quá trình tranh tụng, không ghi nhận quan điểm, lập luận của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà chỉ nêu ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là “đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn”, không nhận định quan điểm của luật sư có căn cứ hay không có căn cứ pháp luật.

- Ngày 13/5/2021, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 192/LHST-HNGĐ, ngày 20/12/2019 về việc “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn là anh Casteret RH Jean RH, Quốc tịch Pháp. Chỗ ở: Tòa án Guig, Metro Manila, Philippines. Người được nguyên đơn ủy quyền nhận văn bản tố tụng là Luật sư Đỗ Xuân Đ, trú tại thôn 2, xã L, huyện H, Thành phố Hà Nội. Bị đơn là Chị Phùng Thị CT, có hộ khẩu tại Phòng 104 CX, phường T, quận Đ, Thành phố Hà Nội. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là luật sư Phạm H và luật sư Đỗ Viết H, Văn phòng luật sư T, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, Bản án của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội không phản ánh quá trình tranh tụng, không nêu bất cứ quan điểm, lập luận nào của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ sáu, các tòa án xử lý theo các cách khác nhau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khá nhiều quyền và nghĩa vụ, nhưng không quy định hậu quả pháp lý trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt khi được tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Điều này dẫn đến tình trạng mỗi tòa án lại có cách xử lý khác nhau, có tòa án vẫn tiến hành phiên họp, có tòa án hoãn phiên họp để bảo đảm “an toàn”.

Thứ bảy, chưa có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo an toàn cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Khi các tranh chấp dân sự, kinh tế, hôn nhân, gia đình... ngày càng căng thẳng, việc bị tuyên thua kiện khiến nhiều đương sự bức xúc, nóng giận, mất bình tĩnh, dẫn đến ẩu đả, thậm chí hành hung cả luật sư, hội đồng xét xử, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, song không được các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm minh. Luật sư Trương Thị Hòa - người có nhiều năm kinh nghiệm trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi cho đương sự trong các vụ án dân sự, bức xúc chia sẻ: “nhiều lúc xách cặp ra tòa mà không yên tâm. Nếu có gì xảy ra cũng chẳng có ai bảo vệ”.

Thứ tám, những vụ án dân sự có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng tại các tòa án chiếm tỷ lệ thấp, trong đó người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng chủ yếu là luật sư, rất ít các trường hợp khác

Mặc dù sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án dân sự có xu hướng tăng, nhưng tỷ lệ vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trên tổng số các vụ án mà tòa án đã giải quyết nhìn chung còn thấp. Số lượng vụ việc tham gia tố tụng dân sự của trợ giúp viên pháp lý trong thời gian qua còn thấp so với nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân và số lượng án có liên quan đến người được trợ giúp pháp lý phải giải quyết hằng năm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số lượng vụ việc tham gia tố tụng dân sự do trợ giúp viên pháp lý thực hiện chiếm tỷ lệ chưa cao (khoảng 20%) trong tổng số các vụ việc trợ giúp pháp lý do trợ giúp viên pháp lý thực hiện. Chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trong tố tụng dân sự chưa đồng đều, chất lượng một số bản bảo vệ chưa cao.

Đặc biệt, còn nhiều vụ án tòa án giải quyết chưa có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trên thực tế, phần lớn người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là luật sư, mặc dù pháp luật cho phép cả những người không phải là luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nguyên nhân một phần là do đối tượng đương sự được bảo vệ bị giới hạn với những trường hợp này. Cụ thể, trợ giúp viên pháp lý chỉ trợ giúp một nhóm đối tượng đặc biệt được quy định trong luật trợ giúp pháp lý. Đối với đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động cũng chỉ tham gia bảo vệ cho các đương sự là người lao động trong các vụ án tranh chấp về lao động. Trong khi số lượng các vụ án về lao động rất ít. Có những tòa án tại Hà Nội trong năm 2020, 2021 không phát sinh vụ tranh chấp về lao động nào: ̣như Tòa án nhân dân Quận Long Biên, Gia Lâm, Ba Vì, Hoài Đức. Mặc dù đối tượng công dân Việt Nam tham gia làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một điểm tiến bộ của Bộ luật Tố tụng dân sự, song thực tiễn không thực sự khả quan. Qua nghiên cứu, hầu hết đối tượng là công dân Việt Nam tham gia làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là luật sư, trợ giúp viên pháp lý hay đại diện của tổ chức đại diện tập thể người lao động. Bởi lẽ, công dân Việt Nam thường chỉ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự với tư cách là người đại diện của đương sự do có thể họ có kiến thức pháp luật, chứ họ chưa có kỹ năng tham gia tố tụng. Thực tế đương sự cũng rất ít khi “nhờ” đối tượng này bảo vệ cho mình.

Thứ chín, chất lượng người tham gia tố tụng dân sự với vai trò là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được đánh giá cao và chưa có sự đồng đều

Chất lượng tham gia tố tụng của của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại tòa án chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, tình tiết liên quan đến quá trình tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên tòa. Một số ít người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn yếu về nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, chưa cập nhật các văn bản pháp luật cần thiết cho hoạt động bảo vệ đương sự của mình, từ đó dẫn đến tình trạng nhiều luật sư vi phạm quy định của pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động của luật sư còn dàn trải, thiếu sự chuyên môn hóa trong việc tham gia tố tụng dân sự, dẫn tới năng lực của luật sư nói chung và năng lực của luật sư trong hoạt động tố tụng dân sự nói riêng còn chưa cao. Một số luật sư bị khiếu nại, tố cáo, kỷ luật, tạm đình chỉ tư cách thành viên, xóa tên khỏi danh sách thành viên của Đoàn luật sư.

Hoạt động của trợ giúp viên pháp lý trong thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc. Nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý còn hạn chế. Một số địa phương bố trí cán bộ không có bằng cử nhân luật tham gia làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý, gây khó khăn trong việc tạo nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý. Số lượng luật sư thuộc các tổ chức trợ giúp pháp lý không nhiều, chủ yếu là các luật sư mới hành nghề, chưa có nhiều kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế. Đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý nhiều về số lượng nhưng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, nhiều cộng tác viên không tham gia trợ giúp pháp lý. Đáng chú ý, cộng tác viên là luật sư thực hiện số vụ án rất thấp, trung bình chỉ 10 vụ/năm và chủ yếu xuất phát từ sự tự nguyện, tự giác của từng cá nhân luật sư. Tổng số vụ việc tham gia tố tụng chỉ chiếm 5,8% trong tổng số các vụ việc trợ giúp pháp lý. Các phòng chuyên môn được thành lập nhiều năm nhưng chưa bảo đảm về nguồn lực con người. “Ngoài trợ giúp pháp lý, thống kê cho thấy số lượng viên chức và người lao động của Trung tâm trợ giúp pháp lý chiếm 61%, tổng số cán bộ của Trung tâm, trong đó chuyên viên pháp lý chiếm 43% nhưng theo quy định hiện hành, chuyên viên lại không được thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý. Đây là một sự lãng phí về nguồn lực”.

Như vậy, thực trạng bảo đảm quyền bảo vệ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn nhiều bất cập, vướng mắc. Điều này ảnh hưởng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và việc xác định sự thật khách quan của của vụ án.

2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự tại các tòa án

Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

Thứ nhất, sửa đổi bổ sung quy định liên quan đến thủ tục đăng ký tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

Quy định tại khoản 5, Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã trao cho tòa án quyền quyết định có cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng hay không, điều này đôi khi dẫn đến việc quyết định của tòa án có phần thiếu khách quan, minh bạch. Do vậy, theo quy định tại khoản 5, Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sự tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không nên phụ thuộc vào quyết định của tòa án, mà chỉ cần đương sự nhờ hoặc yêu cầu, đồng thời họ xuất trình được các giấy tờ theo quy định pháp luật.

Thứ hai, cần bổ sung quy định về trường hợp những người không được tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Để thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự cũng như đảm bảo tính khách quan và công bằng giữa các đương sự thì pháp luật tố tụng dân sự cần bổ sung quy định một người chỉ có thể tham gia tố tụng với một tư cách, hoặc là người đại diện do đương sự ủy quyền, hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đại diện theo ủy quyền vẫn có quyền trình bày luận cứ, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm của đương sự. Do đó, việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cùng lúc đóng “hai vai” là không cần thiết, không bảo đảm khách quan, độc lập và trung thực.

Bên cạnh đó, điểm d, khoản 1, Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần nêu rõ: công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ…; không phải là cán bộ, công chức “đang công tác” trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ ba, quy định thống nhất về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng dân sự

Đối với quy định về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn, cần được rà soát và điều chỉnh để đảm bảo sự thống nhất trong Bộ luật Tố tụng dân sự và đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ tư, bổ sung Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cho phép người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có được quyền của đương sự quy định tại khoản 7, Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và cần quy định các chế tài đối với việc cản trở hoạt động thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự khách quan và chính xác, cần xem xét việc trao thêm cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự một số quyền hạn tố tụng nhất định. Chẳng hạn, quyền đề nghị tòa án xác minh, thu thập chứng cứ; đề nghị tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình.Bởi theo khoản 2, Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho tòa án, nhưng nếu vì lý do khách quan mà họ không xác minh, thu thập được, đồng thời không quy định cho họ có quyền yêu cầu tòa án thu thập thì có thể không bảo đảm được tính chính xác cho việc giải quyết vụ án. Cần quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền yêu cầu giám định, bởi họ là người hiểu rõ nhất trường hợp nào cần phải trưng cầu giám định để thu thập chứng cứ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự của mình. Quy định này sẽ giúp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sựchủ động thực hiện việc bảo vệ tốt nhất quyền lợi của đương sự trong những vụ án cần thiết phải trưng cầu giám định.

Pháp luật tố tụng dân sự cũng cần quy định cụ thể hơn chế tài xử lý đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ hoặc quản lý chứng cứ mà cố tình không cung cấp chứng cứ cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Cần hướng dẫn cụ thể các biện pháp xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tương tự như đối với các hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án, Viện kiểm sát.

Thứ năm, thiết lập những quy định cụ thể về quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc biệt là quyền tranh luận tại phiên tòa

Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về tranh luận chưa tạo điều kiện tối đa để các bên đương sự sử dụng các phương pháp chứng minh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật tố tụng dân sự chỉ có một số quy định về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc xây dựng các quy định của pháp luật nhằm thiết lập mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ thể tiến hành tố tụng với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự là yêu cầu hết sức cần thiết. Cần bổ sung các quy định về việc mọi chứng cứ, tài liệu và các ý kiến, quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đều phải được ghi nhận trong bản án, quyết định của tòa án. Nhận định của tòa án trong bản án phải phân tích rõ lý do hội động xét xử chấp nhận hoặc không chấp nhận các tài liệu chứng cứ, yêu cầu, đề nghị mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đưa ra.

Thứ sáu, cần hướng dẫn về vấn đề người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và việc vắng mặt tại phiên tòa khi được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử

Để bảo đảm quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời nâng cao trách nhiệm cũng như tránh việc lợi dụng quyền được tham gia phiên họp để kéo dài thời gian giải quyết vụ án của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cần hướng dẫn cụ thể như sau: “Trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho tòa án xem xét; nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt và không gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho tòa án xem xét thì tòa án vẫn tiến hành phiên họp”. Vấn đề này cũng cần được luật hóa trong Điều 209c Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Cần bổ sung quy định tại phiên tòa được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nếu vắng mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhưng nếu đương sự được bảo vệ không đồng ý hoãn phiên tòa và yêu cầu hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người bảo vệ, tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phiên tòa vẫn diễn ra bình thường.

Thứ bảy, cần quy định các biện pháp bảo đảm sự an toàn cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Để người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự yên tâm hành nghề và thực hiện vai trò của mình, pháp luật cần có những quy định, cơ chế chặt chẽ hơn để bảo đảm an toàn cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt là trong những vụ án dân sự có tranh chấp lớn. Bên cạnh đó cũng cần xử lý nghiêm minh, kịp thời những tình huống phát sinh tại phiên tòa của chủ tọa phiên tòa; tránh tình trạng lơ là hay cố tình làm ngơ, dẫn đến phát sinh những hậu quả đáng tiếc; cần có cảnh sát tư pháp của Tòa án, khác với cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Ngành Công an hiện nay.

Kiến nghị trong thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự tại Hà Nội

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao chất lượng của cán bộ, thẩm phán tại các tòa án, định hướng xây dựng hệ thống tòa án theo chiến lược cải cách tư pháp

Thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, thẩm phán; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị và năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu vị trí công tác. Quán triệt sâu sắc uy tín của tòa án là sự tín nhiệm, niềm tin của người dân vào công lý và công bằng xã hội. Lồng ghép chương trình bồi dưỡng ý thức trách nhiệm, tinh thần thượng tôn pháp luật cho cán bộ tòa án. Đồng thời, cần xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực: nhận tiền hối lộ, chạy án.

Thứ hai, cần đẩy mạnh sự phát triển số lượng, chất lượng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc biệt là luật sư, trợ giúp viên pháp lý

Chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho luật sư. Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần phối hợp với Bộ Tư pháp sớm thành lập Trung tâm đào tạo luật sư hội nhập kinh tế quốc tế, để có các chương trình đào tạo, theo học kịp thời, đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng hành nghề sát với yêu cầu thực tiễn. Phát triển đội ngũ luật sư, trợ giúp viên pháp lý - lực lượng nòng cốt làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, có phẩm chất đạo đức và năng lực tranh tụng. Đồng thời, luật sư cũng phải tự giác trau dồi, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ của mình trên cơ sở thường xuyên nghiên cứu văn bản luật, trao đổi với các đồng nghiệp, không ngừng rèn luyện phẩm chất chính trị, coi trọng đạo đức nghề nghiệp và tâm huyết với công việc.

Thứ ba, nâng cao nhận thức về vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

Những người tiến hành tố tụng phải thực sự coi trọng vai trò của người bảo vệ, bảo đảm điểu kiện để người bảo vệ thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình.

Thứ tư, phải tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý để giúp đương sự trong tranh tụng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp trước tòa án; tăng cường sự phối hợp của cơ quan tiến hành tố tụng

Nâng cao nhận thức về vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự, tăng cường truyền thông về quyền được trợ giúp pháp lý. Cần tăng cường, kết hợp các biện pháp truyền thông: truyền thông truyền thống (trực tiếp về cơ sở; thông qua báo, đài…), truyền thông hiện đại (thông qua internet, điện thoại hotline…) và hình thức đặc thù (hộp, bảng tin, tờ tin trợ giúp pháp lý tại cơ quan tố tụng, chính quyền cơ sở…), nhằm nâng cao nhận thức về quyền trợ giúp pháp lý. Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh, cấp huyện, cần quan tâm tổ chức, phối hợp có hiệu quả với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, kịp thời thông tin, giới thiệu những người thuộc diện trợ giúp pháp lý đến Trung tâm hoặc chi nhánh để được thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí.

Thứ năm, tích cực tuyên truyền, đẩy mạnh việc phổ biến, giáo dục pháp luật đến người dân

Tích cực tổ chức tuyên truyền pháp luật tố tụng rộng rãi, đặc biệt là đối với những khu vực, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Nâng cao nhận thức của người dân về quyền và nghĩa vụ của mình cũng như vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi tham gia tố tụng. Lựa chọn phương pháp tuyên truyền giáo dục phù hợp với khả năng nhận thức và lĩnh hội kiến thức pháp luật của mỗi tầng lớp dân cư.

ThS. TRẦN THỊ THU

Văn phòng Luật sư Trường Long Giang

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin