1. Đảng ta khẳng định, phát triển nguồn nhân lực là một trong những đột phá chiến lược trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1. Có thể khẳng định đây là chủ trương hết sức đúng đắn, sáng tạo, thể hiện tư duy, tầm nhìn mới của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực, nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của Nhà nước, các doanh nghiệp, các gia đình và cá nhân, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế thế giới đang chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam được xác định là nhiệm vụ quan trọng, bước “đột phá”, bảo đảm tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Để giải quyết nhiệm vụ này cần có sự quyết tâm và chung sức của toàn xã hội, mỗi người phải đóng góp sức mình vào nhiệm vụ chung đó, tham gia giáo dục - đào tạo và tự đào tạo, từ đó tạo ra không khí học tập nâng cao trình độ trong toàn xã hội: “Phát triển nhân lực là sự nghiệp, là trách nhiệm của toàn xã hội... Mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào phát triển nhân lực. Thu hút doanh nghiệp tham gia mạnh vào phát triển nhân lực”2.
Trong những năm gần đây, ngành Xuất bản trở nên sôi động bởi phong trào khuyến đọc được đẩy mạnh trong cộng đồng. Không chỉ tăng về số lượng, xu hướng làm sách cũng ngày trở nên đa dạng và hiện đại hơn như xuất bản số, sách điện tử, sách nói, sách tinh gọn… đang được nhiều đơn vị chú trọng đầu tư.
Thị trường được mở rộng và nhu cầu của độc giả tăng lên cũng đặt ra vấn đề về nhân sự cho ngành Xuất bản. Bên cạnh chi phí cho công nghệ mới, làm sao để đào tạo đội ngũ nhân sự vừa có chuyên môn, vừa giỏi công nghệ thông tin, tiếp cận được với độc giả qua các phương tiện truyền thông hiện đại… vẫn là mong mỏi của đông đảo độc giả và trở thành yêu cầu, thách thức đối với nhiều đơn vị xuất bản.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu cần phải xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại; sắp xếp ngành Xuất bản, in và phát hành theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiện đại hóa. Đây là những nội dung quan trọng cần tổng kết thực tiễn để có những giải pháp mới, phù hợp. Có thể khẳng định, để thực hiện nhiệm vụ được Đảng đề ra, một trong những giải pháp có tính quyết định là nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực báo chí, xuất bản trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Trong đó, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực xuất bản là yêu cầu tất yếu, cấp thiết để thúc đẩy nâng ngành Xuất bản phát triển.
Trong nhiều năm qua, công tác đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực xuất bản đã cung cấp cho Đảng, Nhà nước và xã hội nguồn nhân lực bảo đảm cả về số lượng và chất lượng trong lĩnh vực này. Các thế hệ sinh viên ra trường đều thấm nhuần lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức nền tảng về khoa học xã hội và nhân văn, có năng lực chuyên môn và thích ứng với công việc, đáp ứng yêu cầu của bối cảnh mới. Chương trình đào tạo chuyên ngành Xuất bản được xây dựng trên cơ sở kết nối mạnh mẽ giữa lý thuyết và thực hành, giúp sinh viên có khả năng tổng hợp các kiến thức phục vụ công việc chuyên môn sau khi ra trường và tạo tiền đề cho những nghiên cứu sâu hơn hoặc bậc học cao hơn. Các nhà trường đều chú trọng đổi mới nội dung và chương trình đào tạo. Khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngày càng được sắp xếp khoa học, hợp lý đáp ứng yêu cầu cụ thể của các chuyên ngành đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm xuất bản. Các chương trình khung, chương trình chi tiết các ngành đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện theo hướng hiện đại, hệ thống, bảo đảm tính cân đối giữa tri thức khoa học lý luận với tri thức thực tiễn; giữa kỹ năng, nghiệm vụ chuyên môn với phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp. Các nhà trường, cơ sở đào tạo đã kết hợp chặt chẽ, đồng bộ các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, góp phần đáp ứng nhu cầu đào tạo chuyên sâu gắn với yêu cầu bổ sung cập nhật kiến thức mới, kỹ năng thực hành hiện đại. Công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngày càng chặt chẽ; tăng cường tính tích cực, chủ động của người học. Công tác kiểm định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng dần được khách quan hóa thông qua các cơ quan đánh giá độc lập. Công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng được chuyên nghiệp hóa, tin học hóa, tăng cường quản lý thông qua hệ thống quy chế, quy định rõ ràng, minh bạch. Việc kết hợp giữa học tập và nghiên cứu khoa học, sinh hoạt ngoại khóa nhằm rèn luyện kỹ năng, phẩm chất cho sinh viên được chú trọng đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, việc đào tạo nguồn nhân lực xuất bản các cơ sở cũng có nhiều hạn chế, bất cập. Các nhà trường, cơ sở đào tạo đều có chung kiến nghị xuất bản cùng với báo chí, truyền thông là những lĩnh vực đặc thù, song, đến nay chưa có chính sách riêng để đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực này. Việc đào tạo các ngành này cũng giống như các ngành học bình thường khác, vì vậy, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các trường trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong lĩnh vực này của xã hội. Một thực tế đáng chú ý là sau khi tốt nghiệp các trường đào tạo ngành Xuất bản, phần lớn sinh viên không làm những công việc liên quan đến xuất bản mà lựa chọn làm công việc khác. Trong khi đó, có rất nhiều sinh viên các ngành khác (lịch sử, kinh tế, văn hóa h, văn học, triết học…) ra trường lại làm trong lĩnh vực xuất bản. Việc đầu tư cơ sở vật chất và các nguồn lực khác cho ngành Xuất bản còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của ngành cũng như đơn vị đào tạo; chưa kể việc đầu tư cơ sở vật chất trong lĩnh vực xuất bản chưa theo kịp sự thay đổi và sự phát triển nhanh chóng của trong khoa học và công nghệ…
Trong đào tạo hiện nay, chuyên ngành Xuất bản cho thấy khuynh hướng tích hợp và liên ngành/đa ngành, vốn là một khuynh hướng cần thiết và hợp với xu thế hiện tại, không chỉ trong đào tạo, nghiên cứu, mà còn trong cả việc đáp ứng nhu cầu tuyển dụng đa dạng của các đơn vị. Nội hàm của chuyên ngành đào tạo xuất bản, bên cạnh nghiệp vụ chuyên môn khu biệt trong xuất bản và phát hành, còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác có tính ứng dụng cao, ví dụ như quản trị kinh doanh, truyền thông- marketing, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện, xuất nhập khẩu… Nhưng thực tế không phản ánh như vậy.
Hiện nay ở Việt Nam, thống kê sơ bộ có 3 cơ sở đào tạo xuất bản, đó là: khoa Xuất bản - Phát hành của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (đào tạo chuyên ngành Kinh doanh xuất bản phẩm); khoa Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (đào tạo chuyên ngành Biên tập - Xuất bản và Xuất bản điện tử).
Theo kết quả khảo sát được công bố chính thức của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội năm 20233, số sinh viên trúng tuyển nhập học ngành Kinh doanh xuất bản phẩm là 99, nhưng số sinh viên tốt nghiệp chỉ là 37. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm dao động ở mức 90%. Tuy nhiên, dựa trên báo cáo tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp, năm 2020, số sinh viên được khảo sát là 49, nhưng chỉ có 11 sinh viên là có việc làm đúng ngành đào tạo; còn năm 2021chỉ có 10/32 sinh viên làm đúng ngành; còn lại hơn 60% sinh viên làm việc trong các ngành gần hoặc không liên quan đến chuyên ngành đào tạo. Trên cơ sở điều tra không chính thức tại các công ty phát hành sách, số lượng sinh viên tốt nghiệp ngành Kinh doanh xuất bản phẩm hay Xuất bản làm việc tại các đơn vị xuất bản không chiếm đa số. Theo chia sẻ của giám đốc nhân sự một công ty sách, cơ hội việc làm và ưu tiên tuyển dụng đối với cả vị trí biên tập viên và nhân viên kinh doanh thường rơi vào nhóm ứng viên tốt nghiệp những trường đại học “top trên” như: Đại học Ngoại thương, Đại học Kinh tế Quốc dân…Vậy nguyên nhân của hiện trạng trên là gì? Chẳng hạn, khi nói về công việc chuyên môn như biên tập, ngoài nghiệp vụ biên tập (vốn không đơn thuần chỉ là sửa morat), đòi hỏi một biên tập viên phải có phông kiến thức nền khá sâu rộng; ngoài ra, còn cần khả năng ngoại ngữ nếu đó là biên tập viên sách dịch. Còn đối với công việc kinh doanh - phát hành, rõ ràng sự năng động và hiểu biết của các sinh viên ngành kinh tế là một lợi thế.
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, ngoài kiến thức chuyên môn sâu, đòi hỏi đội ngũ cán bộ xuất bản phải có tính năng động, sáng tạo, có năng lực ngoại ngữ - tin học, thậm chí cả những kiến thức khoa học - công nghệ cần thiết để có thể tiếp cận, ứng dụng những công nghệ mới trong hoạt động quản lý chuyên môn, tương ứng với phương thức xuất bản mới. Câu hỏi đặt ra là: “Thay đổi hay là chết?”; Lựa chọn nắm bắt để thích ứng hay chấp nhận tụt hậu phía sau? Đó thực sự là bài toán khó, đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội, của các cơ quan quản lý nhà nước, ccơ quan, đơn vị xuất bản, đặc biệt là các nhà trường và cơ sở đào tạo nhân lực xuất bản. Bởi xuất bản truyền thống tất yếu sẽ trở nên yếu thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của thị trường mới, thậm chí có nguy cơ “chết yểu” nếu không có kế hoạch, chiến lược đầu tư, thay đổi. Vậy cần thay đổi từ đâu? Chúng ta đơn giản nghĩ rằng chuyển đổi số là chuyển định dạng từ sách giấy sang Ebook, Audiobook… Nhưng chúng ta quên rằng, để chuyển từ giấy sang các định dạng khác, đòi hỏi con người, cách thức, bộ máy, tư duy phải chuyển đổi sang định dạng mới. Như vậy, chuyển đổi số là một quá trình thay đổi toàn diện, mà tư duy, nhận thức chính là căn cốt của vấn đề. Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực trẻ, là những người có tốc độ tiếp cận công nghệ, chuyển đổi số nhanh nhất. Chỉ khi lực lượng này tiếp cận chuyển đổi số, làm chủ thông tin thì mới có thể giải được bài toán thách thức chuyển đổi. Nghĩa là chúng ta phải hiểu rõ sự cấp thiết phải chú trọng vào việc nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực xuất bản hiện nay, trong đó bao gồm cả trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng tiếp cận, ứng dụng khoa học - công nghệ. Và điều này cần được làm tốt ngay tại các cơ sở đào tạo, các trường đại học, học viện đào tạo các ngành có liên quan - tức là nhiệm vụ tạo nền tảng; còn các đơn vị tuyển dụng có nhiệm vụ tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện để nhân sự củng cố, học hỏi và trau dồi thêm.
Hiện nay, một trong những khó khăn chủ yếu đối với các đơn vị tuyển dụng là việc phải đào tạo lại nhân sự mới để đáp ứng theo yêu cầu và quy trình công việc. Tình trạng sinh viên mới tốt nghiệp có tâm thế thụ động cần phải được “cầm tay chỉ việc” rất phổ biến. Đây cũng là hiện trạng chung của nhiều ngành, nghề, bởi nếu không phải tái đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ, quy trình, thì cũng phải thay đổi về tư duy làm việc, tư duy độc lập - sáng kiến của nhân sự mới, thậm chí khía cạnh thứ hai còn đòi hỏi phải mất nhiều thời gian hơn.
Nhiều thế hệ sinh viên ra trường rơi vào tình trạng “bơ vơ”, không được trang bị kỹ năng để dấn thân vào công việc thực tế. Học lại ngoài xã hội là phương cách chủ yếu để sinh viên mới ra trường tích lũy kinh nghiệm. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là phải có sự liên kết chặt chẽ giữa chuyên ngành đào tạo trong nhà trường và hệ thống các đơn vị tuyển dụng trong ngành, thậm chí các đơn vị này có thể tham gia sâu hơn và xuyên suốt quá trình đào tạo cử nhân.
Có thể thấy, sự thay đổi của ngành Xuất bản hiện nay đã đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề đào tạo nguồn nhân lực xuất bản tại các cơ sở đào tạo. Với tư cách là trường đại học trọng điểm trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ sở đào tạo báo chí - truyền thông - xuất bản hàng đầu của cả nước, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) có vai trò quan trọng không chỉ tạo nguồn nhân lực xuất bản đáp ứng yêu cầu mới mà còn đặt nền tảng để nguồn nhân lực thích ứng trong thời gian dài hơn do bối cảnh công nghệ xuất bản thay đổi và phát triển rất nhanh.
Hiện nay, Học viện ngày càng chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đào tạo nghiên cứu khoa học, đội ngũ và cơ sở vật chất để “trở thành trường đại học hàng đầu, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực lý luận chính trị, tư tưởng - văn hoá, báo chí và truyền thông tại Việt Nam đến năm 2025; trung tâm nghiên cứu uy tín về báo chí và truyền thông tại khu vực Đông Nam Á đến năm 2035 và trường đại học được xếp hạng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đến năm 2050”.
Mục tiêu chiến lược của Học viện trở thành lựa chọn số 1 của người học về báo chí, xuất bản, truyền thông - nơi người học thực sự ở vị trí trung tâm của quá trình dạy học và nhận được những trải nghiệm tích cực. Học viện sẽ là trung tâm quốc gia nghiên cứu tư tưởng - văn hóa, lý luận chính trị, xuất bản, báo chí và truyền thông, là nơi tập hơp đội ngũ chuyên gia đầu ngành về những lĩnh vực này. Theo định hướng đó, chương trình đào tạo xuất bản của Học viện ngày càng được cải tiến sát với yêu cầu thực tiễn, nội dung cập nhật, có tính ứng dụng cao, tăng cường thực hành gắn với sử dụng công nghệ.
2. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực là một nhiệm vụ then chốt. Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ ở các doanh nghiệp xuất bản trong và ngoài nước, yêu cầu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực xuất bản ngày càng càng trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Thứ nhất, trước hết khung đào tạo xuất bản cần được quan tâm xây dựng bài bản, trong đó chú trọng vùng, miền, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Công tác đào tạo phải không ngừng đổi mới, nâng cao, bám sát thực tiễn; đội ngũ giáo viên phải có bề dày kiến thức thực tiễn, tư duy lý luận, tận tâm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo xuất bản.
Thứ hai, xây dựng, bổ sung, điều chỉnh hệ thống giáo trình theo xu hướng kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Theo đó, ngoài việc cung cấp cho sinh viên những kỹ năng mềm thông qua các môn học lý thuyết cơ sở có nội dung thuộc về bản chất và nguyên lý, thì rất cần thông qua quá trình liên kết, phối hợp đào tạo với các đơn vị xuất bản sẽ tạo dựng cho sinh viên kỹ năng nghề thông qua học thực tế, thực nghiệm, hướng tới tự chủ và độc lập trong công việc. Đây là một mô hình mới, quá trình học có nội dung trải nghiệm liên tục, từ quá trình tiếp thu đến tự học, đến học nhóm, thực hành tại các đơn vị xuất bản và sau cùng là thực tế ứng với các mong muốn vị trí làm việc sau này của sinh viên. Chẳng hạn, trong chương trình đào tạo chuyên ngành Xuất bản điện tử, sinh viên sau khi học môn Xuất bản sách điện tử, Xuất bản sách nói đã được Khoa tổ chức đi kiến tập nghề nghiệp tại Công ty Waka - doanh nghiệp xuất bản, phân phối sách điện tử có bản quyền hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Sinh viên được trải nghiệm thực tế, tìm hiểu quy trình làm sách nói, sách điện tử; được trực tiếp tham gia các khâu làm sách nói như dựng kịch bản, thu âm, biên tập âm thanh.
Thứ ba, đổi mới và cập nhật quy trình đào tạo tiên tiến theo hướng hiện đại, sát thực tế, phù hợp với yêu cầu của các cơ sở sử dụng đội ngũ sinh viên sau khi ra trường; từng bước nâng cao chất lượng giáo trình và tài liệu tham khảo phục vụ công tác đào tạo và bồi dưỡng, tuyển chọn và biên dịch những tài liệu của nước ngoài để phục vụ cán bộ giảng dạy và sinh viên học tập, mời nhà tuyển dụng tham gia trực tiếp vào việc thiết kế khung chương trình, hướng tới xây dựng một bộ giáo trình chuẩn và liên thông đào tạo các loại hình thuộc khối xuất bản, biên tập in và phát hành xuất bản phẩm.
Thứ tư, các cơ sở đào tạo, các trường đại học, học viện cần tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng hiện đại, bám sát thực tiễn, theo kịp xu thế của truyền thông; khuyến khích giảng viên, sinh viên đẩy mạnh nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng gắn với thực tiễn phong phú, sôi động của lĩnh vực xuất bản. Việc đào tạo phải phục vụ mục tiêu sinh viên sau khi ra trường đáp ứng yêu cầu công việc và khả năng tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn đào tạo. Chú trọng hơn việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực; khuyến khích giảng viên sử dụng các thiết bị, phương tiện giảng dạy hiện đại góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Đa dạng hóa các loại hình kiểm tra, đánh giá theo hướng bảo đảm tính chính xác, khách quan, tiếp cận với phương thức kiểm tra, đánh giá của các nước tiên tiến, tạo điều kiện cho sinh viên học tập, trao đổi với chuyên gia nước ngoài.
Thứ năm, tăng cường công tác tổ chức, quản lý đào tạo, bồi dưỡng theo hướng hiện đại; chủ động phối hợp với cơ quan liên quan, tập trung triển khai, thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm công tác xuất bản. Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo nhân lực ngành Xuất bản nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất bản, từ đó góp phần quan trọng nâng tầm thế và lực của xuất bản Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Thứ sáu, đối với với Học viện Báo chí và Tuyên truyền - một trong những cơ sở đào tạo báo chí - truyền thông và đặc biệt là xuất bản hàng đầu của cả nước, cần nâng cao nhận thức về vai trò của một trường Đảng, một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Đảng có bề dày truyền thống. Theo đó, Học viện cần tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng hiện đại, bám sát thực tiễn, theo kịp xu thế của xuất bản thế giới; khuyến khích giảng viên, sinh viên đẩy mạnh nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng gắn với thực tiễn phong phú, sôi động của lĩnh vực xuất bản. Tăng cường công tác tổ chức, quản lý đào tạo, bồi dưỡng theo hướng hiện đại; chủ động phối hợp với cơ quan liên quan, tập trung triển khai, thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm xuất bản.
Cùng với đó, cần tích cực ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào quá trình giảng dạy và học tập; tăng cường đổi mới liên kết giữa lý luận và thực tiễn thông qua các chương trình phối hợp; chú trọng công tác tuyên truyền, lấy chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu làm cơ sở để quảng bá và xây dựng thương hiệu của Học viện.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 54.
2. Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19/4/2011 về việc phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020.
3. https://nguoidothi.net.vn/nguon-nhan-luc-nganh-xuat-ban-va-cau-chuyen-giao-duc-khai-phong-41301.html.
ThS. DƯƠNG THỊ DUYÊN
Học viện Báo chí và Tuyên truyền