Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Việt Nam trong các cơ chế đa phương do ASEAN dẫn dắt

CT&PT - Bước sang thập niên thứ ba thế kỷ XXI, ASEAN đang phát huy hiệu quả vai trò dẫn dắt trong các cơ chế đa phương ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực ngày càng được ủng hộ, nâng cao. Bài viết làm rõ vai trò điều phối của ASEAN trong các cơ chế an ninh - chính trị và kinh tế đa phương, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Việt Nam - với tư cách là một thành viên của ASEAN - trong các cơ chế đa phương do ASEAN dẫn dắt, đưa Việt Nam thực sự trở thành hạt nhân gắn kết, vững mạnh và phát triển thịnh vượng

1. Vai trò điều phối của ASEAN trong các cơ chế an ninh - chính trị và kinh tế đa phương

Thứ nhất, các cơ chế an ninh đa phương do ASEAN dẫn dắt đang trở thành nơi quy tụ, thu hút các nước lớn và các nước trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương quan tâm, hướng tới thúc đẩy an ninh bền vững, dựa trên luật pháp quốc tế.

Diễn đàn khu vực (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị thượng đỉnh cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á (Đối thoại Shangri-La), Hội nghị ASEAN với các đối tác (ASEAN+1, ASEAN+3) là những sáng kiến đặc sắc của các nước ASEAN. Trải qua quá trình phát triển, đến nay các cơ chế này đã tạo nên những diễn đàn quốc tế có sự tham gia của các nước lớn. Tại đây, các nước tham gia bày tỏ chính kiến, trao đổi sự quan tâm, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và bày tỏ mong muốn tạo nên sự cân bằng nhằm kiềm chế những nguy cơ đe dọa hòa bình, ổn định khu vực Đông Nam Á nói riêng và toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nói chung.

Bước sang thập niên thứ ba thế kỷ XXI, ARF, ADMM/ADMM+, EAS, Shangri-La đều đang chứng tỏ đây là một hình thức hợp tác thích ứng với tình hình mới, phù hợp với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và đã có những đóng góp đáng kể đối với an ninh khu vực. Hiện nay các cơ chế này đều kêu gọi các thành viên tham gia thúc đẩy an ninh bền vững, dựa trên luật pháp quốc tế. Mặc dù có những khó khăn trong tiến trình hoạt động, song cơ chế điều phối và cách thức hoạt động của ASEAN tại các diễn đàn an ninh đa phương này cho thấy bước đột phá mới trong quyết tâm kiến tạo một cấu trúc an ninh mới do ASEAN làm trung tâm. Phương cách của ASEAN trong các cơ chế an ninh đa phương là “bao trùm, cởi mở và không ràng buộc”1.

Chính phương cách này đã khiến các cường quốc có thể chấp nhận được, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN. Những bước chuyển biến mới về nhận thức và hành động cả trong lĩnh vực an ninh truyền thống và phi truyền thống trong thời gian qua (đại dịch Covid-19, an ninh lương thực, hỗ trợ nhân đạo...), thể hiện quyết tâm duy trì và củng cố vai trò trung tâm của ASEAN tại khu vực. ASEAN đều đóng vai trò là bên đưa ra bộ quy tắc ứng xử áp dụng cho tất cả các nước tham gia. Điều này giúp ASEAN có thể kiểm soát, làm chủ các nguyên tắc và cơ chế hợp tác, biến ASEAN thành “cốt lõi”, “trung tâm” của hợp tác khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Cho tới nay đã có 50 quốc gia tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á2 - điều này càng cho thấy vai trò của ASEAN trong việc thúc đẩy hợp tác đa phương hữu nghị và cùng tồn tại hòa bình.

Thứ hai, các cơ chế kinh tế đa phương do ASEAN dẫn dắt đang tập hợp được các nền kinh tế lớn trên thế giới và ASEAN đóng vai trò trung tâm

Cùng với việc chú trọng, ổn định, nâng cấp vai trò của ASEAN trong các cơ chế Hiệp định thương mại tự do với các đối tác (FTAs+1) lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Ôxtrâylia và Niu Dilân,... ASEAN đặc biệt quan tâm việc giữ vai trò trung tâm kinh kế trong các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương như RCEP, APEC, CPTTP...

Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) có 15 thành viên, trong đó có sự hiện diện của 10 thành viên ASEAN. Cơ chế này đã được chính thức ký kết tháng 11/2020 với kỳ vọng sẽ tạo nên một thị trường thương mại tự do lớn nhất từ trước tới nay. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, RCEP mở ra một thị trường với quy mô lớn gồm 2,2 tỷ dân, chiếm gần 30% dân số thế giới và đạt khoảng 27 nghìn tỷ USD, chiếm 30% GDP toàn cầu3.

RCEP đang tạo nên một khuôn khổ pháp lý ràng buộc trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp... góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng, minh bạch. RCEP được coi như sự tổng hợp phạm vi của các Hiệp định thương mại tự do (FTAs) ASEAN+1 trong việc thúc đẩy thương mại và đầu tư. RCEP góp phần đề cao vai trò trung tâm của ASEAN trong quá trình định hình cấu trúc khu vực do RCEP là liên minh kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất mà ASEAN đóng vai trò dẫn dắt cho đến nay. Các cường quốc như Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ đều nhất trí với vai trò trung tâm của ASEAN, ít nhất là trong hội nhập kinh tế khu vực.

Trong cơ chế Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) bao gồm 11 quốc gia thành viên, có một số thành viên ASEAN từ phiên sáng lập (Xinhgapo, Brunây) và thành viên tham gia sau (Malaixia, Việt Nam). Năm 2021, Trung Quốc đã đệ đơn xin gia nhập CPTTP, một số thành viên trong và ngoài ASEAN đang xem xét gia nhập như Thái Lan và Philippin, Anh, Hàn Quốc... khiến uy tín của CPTPP ngày càng được nâng cao. Hiện nay, CPTPP có tổng GDP vào khoảng 10,2 nghìn tỷ USD, chiếm hơn 13% tổng GDP toàn cầu và với 6,8% dân số thế giới4.

CPTTP đang hướng tới xây dựng thỏa thuận thương mại tự do chất lượng cao, cắt giảm thuế quan, tiến tới mức thuế quan chung, thiết lập khuôn khổ chung về sở hữu trí tuệ, áp dụng tiêu chuẩn chung về môi trường đầu tư và nguồn nhân lực, xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia thành viên. Mức độ thể chế hóa hợp tác của CPTPP rất cao, tính ràng buộc các thành viên trong CPTPP cũng cao hơn hẳn so với khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do mà Đông Á hiện có.

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã cùng Cộng đồng ASEAN tự tin thể hiện bản lĩnh mạnh mẽ, sự nỗ lực và tinh thần tự cường nhằm tiếp tục kiến tạo “vai trò trung tâm” trong các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Là một thành viên của ASEAN, Việt Nam cùng các thành viên khác đang chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong việc xây dựng chính sách và đào tạo nguồn nhân lực có tri thức để kiến tạo nên một thị trường năng động, điểm đến của hội nhập kinh tế quốc tế, một Cộng đồng ASEAN hướng tới mục tiêu thịnh vượng, phát triển bền vững, không bỏ lại ai ở phía sau. Việc nắm bắt, nhận thức đúng về vai trò trung tâm của ASEAN sẽ giúp cho Việt Nam có định hướng đúng đắn với tư cách thành viên của cộng đồng này.

Vai trò trung tâm trong các cơ chế hợp tác đa phương là một kết quả lâu dài, nỗ lực không ngừng nghỉ của ASEAN. Vai trò này như một “quyền lực chính trị” trong quan hệ quốc tế của ASEAN. Nó có thể được phát huy hoặc suy giảm theo thời gian. Vì vậy, mỗi thành viên trong ASEAN cần ý thức được sự đoàn kết nội khối, cần chủ động, tích cực, có trách nhiệm khi tham gia các cơ chế do ASEAN dẫn dắt để cùng giữ được vai trò trung tâm của tổ chức khu vực.

2. Một số giải pháp phát huy vai trò của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác do ASEAN dẫn dắt

Sau gần 37 năm đổi mới và gần 28 năm hội nhập quốc tế kể từ khi Việt Nam tham gia ASEAN (năm 1995), vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được khẳng định. Bên cạnh đóng góp của Việt Nam trong nội khối ASEAN, Việt Nam còn là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong các hoạt động ngoại khối của ASEAN, điển hình là các cơ chế an ninh - chính trị và kinh tế đa phương do ASEAN dẫn dắt. Đây được coi là kênh đối ngoại đa phương mà Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng và dành ưu tiên: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế”5. Trong đó, các cơ chế đa phương do ASEAN dẫn dắt đang được Việt Nam ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, để phát huy, khẳng định vai trò của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác do ASEAN dẫn dắt, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, Việt Nam cần chủ động nắm bắt và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm khi tham gia các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, việc chủ động nắm bắt những cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế đa phương là: “Nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế để mở rộng thị trường, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm (...) Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết (...) Xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế”6.

Với chủ trương trên, Việt Nam cần nhanh chóng cải cách các cơ cấu kinh tế, cơ chế chính sách, thể chế theo đúng nguyên tắc và thông lệ quốc tế, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển.

Tại các cơ chế hợp tác do ASEAN sáng lập và tham gia như AFTA, ASEAN+1, ASEAN+3, APEC, RCEP, CPTTP, ASEM,... Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế số, chú trọng hoàn thiện thể chế chính sách phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN và thông lệ quốc tế.

Trong bối cảnh các nền kinh tế lớn tiếp tục điều chỉnh chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng, Việt Nam cần xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự là động lực của tăng trưởng kinh tế, tạo sức bứt phá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cơ sở hạ tầng, hệ thống logistics, năng lực quản trị của Nhà nước và doanh nghiệp, thủ tục hành chính, nguồn nhân lực có trình độ, điều kiện làm việc của công nhân... cần được chú trọng, hiện đại hóa để thu hút FDI từ bên ngoài.

Các bộ, ngành, địa phương của Việt Nam cần tiếp tục tạo cơ chế ưu đãi đầu tư phù hợp với đặc điểm của các đối tác, ngành có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn với ngành sản xuất, chế tạo của các đối tác có trình độ khoa học - công nghệ cao, cần quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng theo hình thức đối tác công tư (PPP), cho phép doanh nghiệp nước ngoài góp vốn vào các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam; xem xét mở rộng hơn nữa cơ chế ưu đãi cho các doanh nghiệp đang sở hữu công nghệ tiên tiến cũng như các doanh nghiệp mở rộng đầu tư với quy mô lớn; xây dựng chuỗi sản xuất tuần hoàn; đẩy mạnh hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp nước ngoài trong các lĩnh vực như phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển...

Với các lợi thế hiện có (là thành viên của ASEAN, đã tham gia ngày càng sâu vào các chuỗi cung ứng toàn cầu như RCEP, CPTPP và EVFTA...), Việt Nam đang trở thành điểm đến được nhiều nền kinh tế lớn hướng tới trong các thỏa thuận thương mại.

Thứ hai, Việt Nam cần tích cực, chủ động tham gia các cơ chế an ninh đa phương thông qua các chương trình hành động và các sáng kiến vì hòa bình, an ninh khu vực

Tại các cơ chế an ninh đa phương do ASEAN sáng lập, với vai trò điều phối, Việt Nam cần tiếp tục tranh thủ các điểm tương đồng về mặt lợi ích, cách tiếp cận của ASEAN và các nước lớn trong vấn đề an ninh khu vực.

Gắn với an ninh khu vực là vấn đề lợi ích, chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông. Hiện nay, Biển Đông đang là một trong những địa bàn cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc. Ngoài ra, các nước lớn và tổ chức khu vực khác như Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, Ôxtrâylia, EU đều có những tham vọng riêng và chiến lược gia tăng ảnh hưởng tại Biển Đông. Điều này tác động trực tiếp đến ASEAN và Việt Nam, đặc biệt, tác động mạnh mẽ đến môi trường hòa bình, ổn định mà Việt Nam đang cố gắng cùng ASEAN duy trì để hội nhập và phát triển.

Do đó, tham gia các cơ chế an ninh đa phương do ASEAN dẫn dắt, Việt Nam cần “tiếp tục tranh thủ các điểm đồng thuận về mặt lợi ích, cách tiếp cận của ASEAN và các nước lớn trong vấn đề Biển Đông để bảo vệ lợi ích quốc gia và đề cao cách thức giải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo hướng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế”7.

Mặt khác, các nước ASEAN có mục tiêu chung là xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, song mỗi nước có lợi thế và lợi ích riêng, nên việc tìm tiếng nói chung để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông cũng trở nên nhạy cảm. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo gặp khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Việt Nam phải cân nhắc kỹ lưỡng và xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và cả các thành viên trong ASEAN.

Với vai trò chủ trì, điều phối trong các cơ chế ARF, ADMM/ ADMM+, EAS, Việt Nam cần tiếp tục nhấn mạnh tính cấp thiết bảo đảm tự do hàng hải, hàng không, duy trì các hoạt động thương mại hợp pháp không bị cản trở ở Biển Đông; kêu gọi phi quân sự hóa và kiềm chế, không sử dụng vũ lực trong xử lý các tranh chấp trên Biển Đông; tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS-1982), các nguyên tắc ứng xử của khu vực. Việt Nam cần tận dụng vai trò dẫn dắt, đi đầu để tạo sự đồng thuận giữa các thành viên và nhận được sự ủng hộ từ bên ngoài.

Thứ ba, Việt Nam tiếp tục chủ động dẫn dắt ASEAN đoàn kết, thống nhất theo đúng tinh thần của “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025” và “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025”

Với “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025”, chính phủ các quốc gia ASEAN cam kết xây dựng ASEAN với đích đến là: Một cộng đồng thống nhất, hòa bình, ổn định và cùng chia sẻ sự phồn vinh. Một ASEAN dựa trên luật lệ, hướng tới người dân và lấy người dân làm trung tâm, nơi người dân của chúng ta được hưởng các quyền con người và tự do cơ bản, với chất lượng cuộc sống cao hơn cùng các lợi ích mà tiến trình xây dựng cộng đồng mang lại, tăng cường sự gắn kết và bản sắc chung, trên cơ sở các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương ASEAN8.

Với tư cách là nước thành viên, Việt Nam đã tuân thủ nghiêm túc cam kết của các thành viên trong các văn kiện pháp lý trước đó như: Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Tầm nhìn ASEAN 2020, Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II, Hiến chương ASEAN, Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (2009 - 2015), Tuyên bố Bali về “ASEAN trong Cộng đồng các quốc gia toàn cầu”, Việt Nam đã tích cực đóng góp vào nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN nói chung và trong tiểu vùng sông Mê Kông cũng như trong 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia nói riêng.

Với “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025”, chính phủ các quốc gia ASEAN cam kết: Một Cộng đồng ASEAN thực sự vững mạnh, giữ vai trò trung tâm ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và ở khu vực rộng lớn hơn, có vị thế cao trên thế giới9. Để góp phần cùng ASEAN hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam nhận thức rõ sự cần thiết phải phát huy hơn nữa uy tín và năng lực của mình trong 3 cộng đồng hạt nhân: APSC, AEC, ASCC. Cụ thể:

(i) Đối với Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC), là thành viên của ASEAN, Việt Nam cần tuân thủ triệt để các nguyên tắc cơ bản, các giá trị và chuẩn mực chung của ASEAN cũng như các nguyên tắc của luật pháp quốc tế về ứng xử hòa bình trong quan hệ giữa các quốc gia. Việt Nam đề cao các giá trị chung trên tinh thần thống nhất trong đa dạng cũng như xử lý mối đe dọa của chủ nghĩa cực đoan bạo lực dưới tất cả các hình thức và biểu hiện.

Việt Nam cần nâng cao năng lực để xử lý hiệu quả và kịp thời các thách thức hiện đang nổi lên, bao gồm các vấn đề an ninh phi truyền thống, đặc biệt là các loại tội phạm xuyên quốc gia và các thách thức xuyên biên giới. Giải quyết các tranh chấp và khác biệt bằng các biện pháp hòa bình, tăng cường xây dựng lòng tin, thúc đẩy các hoạt động ngoại giao phòng ngừa và các sáng kiến giải quyết xung đột.

Thông qua các cơ chế của ASEAN, Việt Nam dẫn dắt và áp dụng các nguyên tắc, công ước về hàng hải được quốc tế công nhận nhằm tăng cường an ninh, hợp tác hàng hải vì hòa bình, ổn định ở trong và ngoài khu vực. Từ đó xây dựng một cộng đồng đoàn kết, thống nhất và thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN, là động lực chủ đạo trong định hình cấu trúc khu vực được xây dựng trên cơ sở các cơ chế do ASEAN dẫn dắt.

(ii) Đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam cần góp phần đẩy nhanh tiến trình “một thị trường thống nhất” thông qua tăng cường các cam kết về thương mại hàng hóa và thông qua việc giải quyết hiệu quả các rào cản phi thuế quan; hội nhập sâu hơn trong lĩnh vực thương mại dịch vụ; lưu chuyển thông thoáng hơn về đầu tư, lao động có tay nghề, doanh nhân và vốn. Việc tích cực cùng các nước ASEAN-4 thu hẹp khoảng cách phát triển là ưu tiên trong hoạt động hợp tác kinh tế cần tiếp tục được phát huy.

Hội nhập trong AEC, đến nay vẫn được coi là “điểm tựa” quan trọng cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế, hoàn thiện những thiếu sót để bảo đảm phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế, tạo dựng lòng tin với các nhà đầu tư và tăng khả năng cạnh tranh; tích cực phối hợp cùng các nước ASEAN thúc đẩy việc xây dựng các khuôn khổ hợp tác mang tính ổn định, bền vững, dựa theo luật lệ với các đối tác ngoại khối nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư từ ngoại khối.

Với “Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025” của AEC, Việt Nam cần điều chỉnh các chương trình hợp tác trong ASEAN theo hướng đáp ứng tình hình mới, cùng các nước trong AEC khẳng định và thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong việc điều phối các hoạt động hợp tác kinh tế trong khu vực.

Với “Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025” của AEC, Việt Nam cần điều chỉnh các chương trình hợp tác trong ASEAN theo hướng đáp ứng tình hình mới, cùng các nước trong AEC khẳng định và thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong việc điều khối các hoạt động hợp tác kinh tế trong khu vực.

(iii) Đối với Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC), Việt Nam cần chủ động kết nối và hướng tới đích của một cộng đồng dung nạp, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện tiếp cận đồng đều các cơ hội cho tất cả mọi người, thúc đẩy bảo vệ nhân quyền cho phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người già, người khuyết tật, người lao động di cư, các nhóm dễ bị tổn thương và yếu thế. Một cộng đồng năng động và hài hòa, nhận thức và tự hào về bản sắc văn hóa và di sản của mình đi đôi với tăng cường khả năng sáng tạo, chủ động đóng góp vào cộng đồng toàn cầu.

Việt Nam thực sự phải là hạt nhân gắn kết, vững mạnh và phát triển thịnh vượng, đòi hỏi trách nhiệm không ngừng tăng cường đoàn kết, thống nhất và liên kết nội khối, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung của Cộng đồng và lợi ích riêng của mỗi nước thành viên. Cần tiếp tục coi ASEAN như là một “lối ra” thế giới của Việt Nam để có chiến lược ưu tiên trong quan hệ quốc tế.

Bên cạnh việc tích cực tham gia vào các tiến trình hợp tác Đông Á mở rộng, Việt Nam không thể bỏ qua các cơ chế hợp tác tiểu vùng như: cơ chế hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, cơ chế tam giác tăng trưởng Campuchia - Lào - Việt Nam. Đối với tiểu vùng Mê Kông, Việt Nam cần tích cực, chủ động hợp tác với các quốc gia tiểu vùng Mê Kông trong các vấn đề an ninh phi truyền thống. Đồng thời tích cực với vai trò kiến tạo cùng với Lào và Campuchia trong việc hình thành một Cộng đồng Mê Kông tương lai với 3 trụ cột chính: (i) kiến tạo kết nối tiểu vùng; (ii) kiến tạo quá trình phát triển bền vững; (iii) kiến tạo bản sắc Mê Kông.

Đối với cơ chế Tam giác phát triển CLV (Campuchia - Lào - Việt Nam), Việt Nam cần tiếp tục tăng cường kết nối giữa 3 nền kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế, tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, ứng phó với các thách thức chung. Việt Nam đã tích cực đóng góp vào nội dung của các Hội nghị Tam giác phát triển CLV và ủng hộ việc từng bước mở rộng hợp tác Khu vực tam giác phát triển CLV hướng tới bao trùm toàn bộ 3 quốc gia. Việt Nam cần tiếp tục chủ động dẫn dắt cơ chế này cùng các thành viên còn lại hoàn thành “Kế hoạch tổng thể về kết nối 3 nền kinh tế CLV đến năm 2030”, bao gồm những định hướng lớn thúc đẩy hợp tác kết nối về kết cấu hạ tầng, thể chế và kinh tế và giao lưu nhân dân.

Thứ tư, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các ban, bộ, ngành (trước hết là Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) trong tư vấn hoạch định và thực thi chính sách tham gia các cơ chế đa phương của ASEAN, nâng cao chất lượng dự báo chiến lược

Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an với chức năng, nhiệm vụ được giao, có vai trò quan trọng trong tư vấn và thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước khi tham gia các cơ chế an ninh ASEAN. Do đó, các Bộ này cần quán triệt sâu sắc, nhận thức đúng đắn việc tổ chức triển khai thực hiện, mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước lớn, các cơ chế đa phương của ASEAN theo quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Để xây dựng chiến lược, chính sách phù hợp, giúp Việt Nam phát huy tốt vai trò của mình khi tham gia các cơ chế đa phương của ASEAN, các bộ, ban, ngành nhất thiết phải nâng cao chất lượng dự báo chiến lược. Đây là việc kết hợp hài hòa các phương pháp nghiên cứu để tiên đoán về sự phát sinh, phát triển của các yếu tố bên ngoài và bên trong có khả năng tác động, chi phối sự phát triển bền vững của một quốc gia trong dài hạn, làm cơ sở cho việc hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện các chính sách, chiến lược xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và tiến bộ xã hội. Nội dung dự báo chiến lược cần phân tích, đánh giá được xu hướng vận động, biến đổi và phát triển, những tác động thuận lợi, không thuận lợi đối với sự phát triển của thế giới, khu vực và đất nước.

Việt Nam đã và đang tham gia, đóng góp tích cực ở các cơ chế đa phương do ASEAN dẫn dắt, khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Việc tham gia ấy không chỉ thể hiện sự chủ động, tích cực trong phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của Việt Nam mà còn cho thấy nhu cầu hợp tác tất yếu vì hòa bình, phát triển thịnh vượng của cả khu vực. Để tiếp tục phát huy vai trò này, Việt Nam nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, đề cao tự cường, tự tin nỗ lực hòa mình trong dòng chảy thời đại để có tiềm lực, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế.

1. Dương Văn Huy: Vai trò trung tâm của ASEAN: thách thức, triển vọng và hàm ý đối với Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 1.005 (tháng 1/2023), tr.110.

2. Luận Thùy Dương: ASEAN: 55 năm thành công và phát triển, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), số 458, tr.24.

3. Phan Trang: Rất nhiều khó khăn khi thực hiện RCEP nhưng Việt Nam đã làm được, http://baochinhphu.vn/Thi-truong/Rat-nhieu-kho-khan-khi-dam-phan-RCEP-nhung-Viet-Nam-da-lam-duoc/414176.vgp, truy cập ngày 15/1/2023.

4. Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực với Việt Nam, https://vneconomy.vn/hiep-dinh-cptpp-chinh-thuc-co-hieu-luc-voi-viet-nam-20190114101849502.htm, truy cập ngày 15/1/2023.

5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr.162, 283 - 284.

7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Quan hệ quốc tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2021, tr.195.

8. Theo Thông tấn xã Việt Nam: Toàn văn Tuyên bố về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025, https://bnews.vn/toan-van-tuyen-bo-ve-tam-nhin-cong-dong-asean-025/4410.html, truy cập ngày 10/1/2023.

9. Việt Nam với Tầm nhìn ASEAN tới 2025 và sau đó, https://baoquocte.vn/viet-nam-voi-tam-nhin-asean-toi-2025-va-sau-do-19986.html, truy cập ngày 16/1/2023.

Theo Tạp chí Lý luận Chính trị

Lưu Thảo Tổng hợp

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin