Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế (*)

CT&PT - Trên cơ sở khái quát quá trình phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bài viết trình bày kết quả quan trọng đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, bất cập về phương diện năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế nước ta, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế góp phần nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

1. Nhận thức về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập kinh tế quốc tế

Tính chất và trình độ độc lập - tự chủ của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế là kết quả tổng hợp bởi bốn nhân tố chủ yếu: Một là, nhận thức về bản chất và trình độ của thể chế kinh tế thị trường; hai là, bản chất và trình độ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; ba là, sự phát triển nội lực của nền kinh tế; bốn là, bản chất và thể chế hội nhập kinh tế quốc tế.

Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được đặt trong dòng chảy phát triển hiện thực của nhân loại và trình độ phát triển hiện thực của đất nước

Từ khi tiến hành đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là một đòi hỏi tất yếu khách quan, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phải gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó:

(i) Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải có cách tiếp cận từ thực tiễn: Thực tiễn sự phát triển kinh tế thị trường trên thế giới và thực tiễn sự phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam trong mối quan hệ biện chứng; hơn nữa, trong mối quan hệ này, kinh tế thị trường của Việt Nam là một bộ phận (nhỏ) của kinh tế thị trường thế giới. Không thể xem xét và xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ tư duy lý luận tư biện, xa rời thực tiễn.

(ii) Vấn đề xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể được xem xét tách biệt với toàn bộ quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của một quốc gia trong điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của thế giới. Về vấn đề này, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: Chủ nghĩa xã hội là kết quả của những sự vận động - phong trào hiện thực của sự phát triển xã hội loài người; “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo… Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đề ra”1. Điều đó nói lên rằng cả mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, trong đó có vấn đề xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là do sự vận động khách quan của hiện thực quy định. Việc đặt ra các mục tiêu và “sáng tạo” ra những con đường không hiện thực, thoát ly khỏi trình độ phát triển thực tế và điều kiện khách quan sẽ không thể thành công.

(iii) Quan điểm của Đảng ta về phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: xây dựng một đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cách tiếp cận theo mục tiêu phát triển bao trùm. Như vậy, có thể hiểu tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước chính là hướng tới thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn và ở trình độ cao hơn mục tiêu bao trùm trên.

Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn phát triển và hội nhập quốc tế

Trong quá trình phát triển, Đảng ta cần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, thể chế thị trường với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

(i) Trong một thời gian dài trước đây, nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa nói chung với quan niệm chủ nghĩa xã hội là sai lệch, giáo điều, đã có nhận thức không đúng về bản chất của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và mối quan hệ với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm đặc trưng bản chất của chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường là phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; kinh tế thị trường không dung hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Cơ chế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa phải là cơ chế kế hoạch hóa tập trung - bao cấp cao độ.

(ii) Quá trình thực hiện đường lối đổi mới đã mang lại cho chúng ta những nhận thức mới cả về lý luận và thực tiễn về bản chất của kinh tế thị trường và mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từng bước tiếp cận với cơ chế thị trường, với sản xuất hàng hóa, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), Đảng ta chỉ rõ: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”2. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006), Đảng ta đã chỉ rõ hơn bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản”3. Chúng ta cần phải sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới góc độ thể chế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”4. Có thể thấy, từ việc coi kinh tế thị trường là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản, không dung hợp với chủ nghĩa xã hội, tiến lên coi kinh tế thị trường không phải là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể vận dụng và phát triển kinh tế thị trường, cao hơn nữa coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một bước ngoặt có tính lịch sử cả về lý luận và thực tiễn của Đảng và đất nước ta.

Vì vậy, có thể khẳng định, tính định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện thông qua đồng bộ thể chế phát triển ở tất cả các lĩnh vực, trong đó phải tạo lập được năng lực độc lập - tự chủ ngày càng cao của nền kinh tế dân tộc, tạo được động lực mạnh mẽ để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

2. Thực trạng năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế Việt Nam

Những kết quả chủ yếu đạt được

Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, với đường lối của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập - tự chủ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhìn tổng thể, năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế ngày càng được nâng cao, thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:

(i) Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với 224 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đàm phán, ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có một số FTA thế hệ mới với những chuẩn mực cao. Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành một trong những nước đi đầu của khu vực trong hợp tác kinh tế đa phương.

(ii) Tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục, đạt trung bình hơn 7%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010; 5,91% trong giai đoạn 2011 - 2015; 6,57% trong giai đoạn 2016 - 2018. Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Sau gần 3 năm chịu tác động bởi đại dịch Covid-19 (2019 - 2021), năm 2022, nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi tăng trưởng, đạt 8,02%.

(iii) Quy mô và tiềm lực kinh tế ngày càng được nâng lên; GDP năm 2019 đạt trên 267 tỷ USD, tăng gần 2 lần so với năm 2011; GDP năm 2021 đạt 368 tỷ USD, năm 2022 đạt 409 tỷ USD.

(iv) Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, năng lực sản xuất tăng cao. Giai đoạn 2011 - 2020, tỷ trọng kinh tế nhà nước giảm dần, tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước không ngừng tăng lên (đến năm 2020, tỷ trọng kinh tế do doanh nghiệp nhà nước đóng góp khoảng 29 - 30% GDP và 28% tổng ngân sách nhà nước; doanh nghiệp tư nhân đóng góp gần 10% GDP; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 20% GDP; kinh tế tư nhân, cá thể, tập thể đóng góp khoảng 30% GDP).

Cơ cấu ngành, lĩnh vực chuyển dịch tích cực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân giảm từ 19,6% (năm 2011) xuống dưới 14% (năm 2019); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 32,2% lên trên 35,3%; khu vực dịch vụ tăng từ 36,7% lên trên 41%.

(v) Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, năng lực chống chịu được nâng cao, thể hiện rõ tính độc lập - tự chủ trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân giảm mạnh từ 18,58% (năm 2011) xuống còn 0,63% (năm 2015) và duy trì ở mức dưới 4% trong giai đoạn 2016 - 2019; năm 2022 ở mức khoảng dưới 3%. Quy mô dự trữ ngoại hối tăng cao, năm 2019 đạt khoảng 80 tỷ USD, gấp gần 6 lần so với năm 2011. Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước dần được cải thiện, bội chi ngân sách nhà nước so với GDP giảm từ 6,61% (năm 2013) xuống còn 3,46% (năm 2018). Tỷ lệ nợ công, nợ nước ngoài và nợ Chính phủ so với GDP bắt đầu giảm từ năm 2017.

(vi) Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện; vị trí của Việt Nam trong Bảng xếp hạng Môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới được cải thiện đáng kể (trong số 190 nền kinh tế được đánh giá năm 2020, Việt Nam đạt 69,8 điểm trên 100, cao hơn năm 2019 (68,36 điểm), xếp thứ 70). Doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) phát triển mạnh. Đã hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân có thương hiệu và năng lực cạnh tranh trong nước, khu vực và quốc tế. Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế tăng lên; đến hết năm 2022 cả nước có khoảng hơn 750.000 doanh nghiệp, tăng gấp 2,5 lần so với năm 2011.

Môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, bảo đảm tính ổn định chính trị - xã hội, là điều kiện để thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam. Tính đến ngày 20/12/2020, cả nước có 33.070 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 384 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 231,86 tỷ USD, bằng 60,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

(vii) Năng xuất lao động không ngừng được nâng lên. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội và tỷ trọng đóng góp của TFP trong tăng trưởng có xu hướng tăng nhanh; từ năm 2016 đến nay, tăng năng suất lao động xã hội dao động ở mức 6%, tỷ trọng đóng góp của TFP trong tăng trưởng dao động ở mức xấp xỉ 40%. Đây là một nhân tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.

(viii) Quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế có bước phát triển mạnh. Quy mô xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh, cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu có chuyển biến tích cực. Năm 2019, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt trên 517 tỷ USD, gấp 2,54 lần năm 2011; có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD). Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tham gia sâu hơn vào khâu gia công - lắp ráp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thương mại nội địa tiếp tục phát triển, quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2019 đạt 4.940,4 nghìn tỷ đồng, gấp 2,38 lần năm 2011, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2019 đạt 12,75%.

Thực hiện đường lối “độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”, Việt Nam không ngừng mở rộng và phát triển quan hệ với hầu hết các quốc gia, tổ chức trên toàn thế giới; từng bước đưa quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả, nhất là với 8 đối tác chủ chốt, bao gồm: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh châu Âu (EU). Trong số 8 đối tác nêu trên, có 3/5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7/20 nước thuộc nhóm G20, 2/7 nước thuộc nhóm G7. Các đối tác này chiếm hơn 78% GDP toàn cầu; 6/8 đối tác nêu trên đồng thời là 6 thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm trên 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, gần 70% vốn FDI và cũng là những đối tác viện trợ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nhiều nhất cho Việt Nam. Trong số các đối tác nêu trên, có 5 đối tác chiến lược, gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga; 1 đối tác toàn diện là Mỹ; 2 tổ chức khu vực là ASEAN và EU. Nhìn chung, quan hệ hợp tác của Việt Nam với các đối tác chủ chốt nêu trên đã được triển khai hiệu quả, thực chất, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực cho phát triển và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Những hạn chế, bất cập về phương diện năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế

Tiềm lực của nền kinh tế được nâng lên, song quy mô còn nhỏ, nguy cơ tụt hậu, “bẫythu nhập trung bình của nền kinh tế vẫn còn hiện hữu

- Về tăng trưởng kinh tế: Từ năm 2008, Việt Nam chính thức trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp với GDP bình quân đầu người đạt 1.145 USD; năm 2021 đạt 3.743,2 USD/người; năm 2022 đạt 4.100 USD/người. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm nước có thu nhập dưới trung bình, chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của Malaysia (năm 1990); Thái Lan (năm 2003); Indonesia (năm 2009); Philippines (năm 2011) và Hàn Quốc (thập niên 80 của thế kỷ XIX). Tính đến năm 2017, GDP bình quân đầu người của Thái Lan gấp 2,8 lần Việt Nam; Malaysia gấp 4,2 lần; Indonesia gấp 1,6 lần và Philippines gấp 1,3 lần. Như vậy, xét trên góc độ GDP bình quân đầu người, Việt Nam đang đi sau Thái Lan 14 năm5, sau Malaysia 27 năm, sau Hàn Quốc khoảng 40 năm, sau Indonesia 8 năm và sau Philippines 6 năm. Năm 1978, GDP bình quân của Việt Nam và Trung Quốc đều ở mức 156 USD/người; đến năm 2021, GDP bình quân của Việt Nam đạt 3.743 USD/người, trong khi GDP bình quân của Trung Quốc đã đạt tới 12.551 USD/người, tiệm cận với mức quốc gia có thu nhập cao (trên 12.695 USD/người). Cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người của thế giới cao hơn GDP bình quân của Việt Nam 3.900 USD, đến nay khoảng cách đã lớn hơn gấp đôi (khoảng 8.300 USD vào năm 2017 và 8.400 USD vào năm 2018) và tiếp tục tăng qua các năm.

- Chất lượng tăng trưởng và hiệu quả kinh tế còn thấp, thiếu bền vững, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao: Theo Tổng cục Thống kê, chi phí đầu vào sản xuất của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các năm. Tỷ lệ chi phí trung gian6 so với giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế năm 2000 là 56,5%, năm 2017 ước tính đạt 68%. Nguyên nhân là do khu vực công nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu là gia công chế biến với tỷ lệ chi phí trung gian cao, giá trị tăng thêm thấp.

- Về năng suất lao động: Năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua có sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, mức năng suất lao động vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Về chênh lệch mức năng suất lao động (tính theo PPP 2011), năng suất lao động của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% mức năng suất lao động của Singapore; 18,4% của Malaysia; 36,2% của Thái Lan; 43% của Indonesia và 55% của Philippines. Đáng chú ý, chênh lệch mức năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng7, đây là thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.

- Hiệu quả đầu tư: Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố vốn. Việc sử dụng vốn hiện nay còn lãng phí, thất thoát, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR (Incremental Capital - Output Ratio, hệ số sử dụng vốn hay còn gọi là hệ số đầu tư tăng trưởng)8. Theo Tổng cục Thống kê, hệ số ICOR của Việt Nam tăng từ 4,04 trong giai đoạn 2001 - 2005 lên 6,08 trong giai đoạn 2006 - 2010 và 6,25 trong giai đoạn 2011 - 2015.

- Về cơ cấu kinh tế: Sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua diễn ra đúng hướng, song so với các nước trong khu vực, quá trình chuyển dịch còn chậm, khoảng cách khá xa so với yêu cầu của một nước công nghiệp (năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%). Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế như hiện nay, Việt Nam phải mất khoảng 10 năm nữa mới có thể giảm được tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, đạt mức bằng với Thái Lan ở giai đoạn hiện nay (khoảng 8%).

- Về năng lực đổi mới, sáng tạo: Năm 2018, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố xếp hạng về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (đánh giá trình độ công nghệ của 126 quốc gia và vùng lãnh thổ), trong đó Việt Nam xếp thứ 45, sau Singapore (xếp thứ 5 trong nhóm dẫn đầu), Malaysia (xếp thứ 35) và Thái Lan (xếp thứ 44). Tính sẵn có về công nghệ mới của Việt Nam tăng từ vị trí 133/142 (năm 2011 - 2012) lên vị trí 112/144 (năm 2017 - 2018), song vẫn thấp hơn rất nhiều so với Malaysia (vị trí 35), Thái Lan (vị trí 56), Indonesia (vị trí 67), Philippines (vị trí 73), thậm chí thấp hơn Campuchia (vị trí 93).

Khả năng tiếp nhận công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục sụt giảm, từ vị trí 88 (năm 2011 - 2012) xuống vị trí 93 (năm 2017 - 2018), là quốc gia có vị trí thấp nhất trong khu vực ASEAN (Malaysia xếp thứ 17, Philippines xếp thứ 51, Indonesia xếp thứ 39, Thái Lan xếp thứ 42 và Campuchia xếp thứ 90).

Về hiệu quả chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, năm 2017 - 2018 Việt Nam xếp thứ 89, giảm 27 bậc so với năm 2011 - 2012, trong khi Singapore xếp thứ 2, Malaysia xếp thứ 13, Thái Lan xếp thứ 40, Indonesia xếp thứ 44, Campuchia xếp thứ 54, Hàn Quốc xếp thứ 55, Philippines xếp thứ 63. Về hiệu quả đổi mới, năm 2017 - 2018, Việt Nam xếp thứ 79, giảm 21 bậc so với năm 2011 - 2012, thấp hơn Malaysia (xếp thứ 14), Singapore (xếp thứ 20), Indonesia (xếp thứ 31), Philippines (xếp thứ 45), Thái Lan (xếp thứ 69), chỉ cao hơn Campuchia (xếp thứ 107).

Về phát triển các thành phần kinh tế

Trong 10 năm qua, mặc dù có sự phát triển đáng kể, song các thành phần kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhìn chung, cấu trúc các thành phần kinh tế chưa thực sự phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và xu thế hội nhập quốc tế chưa phát huy hiệu quả vai trò khách quan của mình trong nền kinh tế thị trường (khu vực doanh nghiệp tư nhân còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP, doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện tốt vai trò điều tiết…); sự liên kết giữa các thành phần kinh tế (nhất là giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước) còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Xét tổng thể, mặc dù hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế được nâng lên, song còn chậm; hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thấp hơn khá nhiều so với các doanh nghiệp FDI.

Về phát triển lực lượng doanh nghiệp

Lực lượng doanh nghiệp đóng vai trò chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, đội ngũ doanh nghiệp có bước phát triển đáng kể về số lượng, song đến nay, số lượng doanh nghiệp đang hoạt động bình quân cả nước mới đạt 8,3 doanh nghiệp/1.000 dân9 (thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực), với khoảng 700.000 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh, trong đó lĩnh vực dịch vụ chiếm 67,1%, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 31,6%, lĩnh vực nông nghiệp chiếm 6,3%. Số doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ chiếm gần 70% không có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mạnh lên nền kinh tế dịch vụ trình độ cao, mà qua đó cho thấy đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại không đầu tư cho phát triển sản xuất dài hạn - trụ cột chủ yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Hơn nữa, trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, số doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ và nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất (khoảng 63% và 31%). Số đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh chỉ chiếm 68,7%, trong đó doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 42,7%, doanh nghiệp kinh doanh hòa vốn chiếm 7,5%, doanh nghiệp kinh doanh lỗ chiếm 49,7%.

Có thể thấy, tiềm lực của lực lượng doanh nghiệp trong nước chưa đủ mạnh về mọi mặt (quy mô, vốn, công nghệ, nhân lực, trình độ quản lý, năng lực hội nhập quốc tế…); hơn nữa, chỉ có khoảng 2.000 trên tổng số hơn 700.000 doanh nghiệp trong cả nước (khoảng hơn 0,2%) tham gia sản xuất công nghiệp hỗ trợ, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng đa quốc gia10, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm và nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài về vốn, công nghệ, thị trường

Khu vực doanh nghiệp FDI có đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam, song thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đang phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu khai thác lao động chi phí thấp và các ưu đãi về thuế, đất đai; nhiều dự án FDI hàm lượng công nghệ thấp, sử dụng công nghệ lạc hậu, chưa tạo hiệu ứng lan tỏa trong phát triển năng lực sản xuất trong nước, trong khi chúng ta chưa tận dụng hiệu quả quá trình chuyển giao công nghệ gắn với đào tạo nhân lực từ các doanh nghiệp FDI; mối liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước còn thấp.

Các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, trong đó chủ yếu là sản phẩm chế biến, chế tạo (kể cả công nghệ cao). Trong khi đó, các doanh nghiệp nội địa chiếm lĩnh ở phân khúc gia công, lắp ráp, chế biến thô với giá trị gia tăng thấp. Độ mở của nền kinh tế lớn (lên tới 200% GDP, đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế giới), do đó, nền kinh tế Việt Nam dễ bị tổn thương và nhạy cảm với các biến động bên ngoài. Năm 2022, kim ngạch xuất - nhập khẩu của cả nước đạt 732,5 tỷ USD, xuất siêu 11,2 tỷ, trong đó doanh nghiệp FDI xuất siêu khoảng 42 tỷ USD, doanh nghiệp trong nước nhập siêu 30,7 tỷ USD. Điều này còn được thể hiện ở chất lượng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, việc tiêu thụ sản phẩm từ bên ngoài (FVA) của Việt Nam chiếm tới 51,1%, trong khi việc cung cấp các sản phẩm ra bên ngoài (DVX) chỉ chiếm 11%.

Biểu đồ về tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu – GVC

hinh-anh-tran-quoc-toan-1696907741.png

Nguồn: Cơ sở dữ liệu của OECD về thương mại và giá trị gia tăng.

Đến nay, xuất - nhập khẩu và đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn tập trung vào một số đối tác chính, chịu sự thâm hụt thương mại lớn với một số đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc... Các điều kiện liên quan đến sử dụng nhà thầu, đầu vào nhập khẩu khi vay vốn nước ngoài và việc các thị trường nước ngoài hạn chế nhập khẩu từ Việt Nam thông qua các hàng rào kỹ thuật trong bối cảnh gia tăng căng thẳng thương mại và chủ nghĩa bảo hộ có thể tạo thêm thách thức đối với việc quản lý nhập siêu của Việt Nam với một số thị trường chủ chốt, đặc biệt là Trung Quốc.

Về năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ

Nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam (do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất) còn hạn chế về hình thức, chất lượng, giá trị gia tăng không cao, năng lực cạnh tranh thấp, mức độ tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế. Bên cạnh đó, mức độ nội địa hóa của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chỉ chiếm 28% tổng kim ngạch thương mại, thấp hơn gần 2 lần so với Trung Quốc. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2018, Việt Nam chỉ đóng góp 20,4 tỷ USD thông qua việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, xếp thứ 53/174 quốc gia; đồng thời, mức độ tham gia vào các công đoạn sản xuất tinh vi, phức tạp của Việt Nam cũng thấp.

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế góp phần nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Một là, nâng cao nhận thức về bảo đảm năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Nhận thức đúng, đầy đủ và sâu sắc về tầm quan trọng của việc bảo đảm năng lực độc lập - tự chủ trong nền kinh tế được thể hiện ở tiềm lực kinh tế của đất nước cũng như của mỗi chủ thể sản xuất, kinh doanh phải ngày càng được nâng cao, phát triển bền vững, không bị chi phối, lệ thuộc vào các đối tác nước ngoài về định hướng và chiến lược phát triển; năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ngày càng được nâng lên, ngang tầm khu vực và thế giới; tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Muốn vậy, trước hết phải phát huy mạnh mẽ sức mạnh nội lực của nền kinh tế dân tộc, gắn với sử dụng hiệu quả yếu tố ngoại lực. Xử lý tốt mối quan hệ tương hỗ về lợi ích giữa Việt Nam với các đối tác trên thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích của bộ, ngành, địa phương; giữa lợi ích của các chủ thể sản xuất kinh doanh với lợi ích của Nhà nước và toàn xã hội; giữa lợi ích chiến lược, lâu dài và lợi ích trước mắt; khắc phục tư duy lợi ích cục bộ, ngắn hạn.

Hai là, khắc phục những “ngộ nhận” về kinh tế thị trường11 và tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường

Cần thấy rằng, tính định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện đồng bộ về pháp luật, cơ chế, chính sách, thể chế phát triển trên tất cả các lĩnh vực, bảo đảm mọi chủ thể trong xã hội, nhất là các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ở mọi thành phần kinh tế, hoạt động hiệu quả, năng động, sáng tạo, góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển bền vững đất nước.

Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi sự đột phá trong nhận thức - tư duy lý luận, khắc phục những “ngộ nhận” về kinh tế thị trường: gắn kinh tế thị trường với bản chất của chủ nghĩa tư bản; coi kinh tế thị trường chỉ đơn giản là hệ thống kinh tế về những hoạt động sản xuất, kinh doanh và trao đổi hàng hóa, dịch vụ, mà không thấy được đây còn là hệ thống các giá trị văn hóa, tinh thần và đạo đức phát triển, không ngừng được đổi mới, sáng tạo; cho rằng cơ chế thị trường tạo ra nhiều bất bình đẳng hơn cả thể chế kinh tế thị trường (bao cấp); phát triển kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc gia tăng tham nhũng hoặc xem kinh tế thị trường là “chìa khóa vạn năng”... Đồng thời, cần sớm xây dựng nền tảng pháp lý và tổ chức thực hiện trong thực tiễn, tạo động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước, cơ sở để nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Ba là, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội - hội nhập quốc tế, kịp thời đón đầu và phát triển các phương thức, mô hình, hình thức sản xuất, kinh doanh mới (kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng Blockchain...), sự chuyển dịch các chuỗi cung ứng; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng cường ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào quá trình sản xuất, kinh doanh, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, coi bảo vệ môi trường là một trong những giá trị cốt lõi trong phát triển kinh tế - xã hội.

Bốn là, đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện đồng bộ, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường theo hướng hiện đại, hiệu quả, bảo đảm phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam

Theo đó, cần thống nhất nhận thức, xác định rõ đặc trưng, tiêu chí của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc chung của nền kinh tế thị trường hiện đại, đồng thời mang đặc trưng định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hội nhập có hiệu quả với thế giới. Hoàn thiện thể chế nhằm giữ vững ổn định và nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô; thực hiện hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “nhà nước mạnh - thị trường hiệu quả - doanh nghiệp, người dân và xã hội năng động, sáng tạo”.

Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; khắc phục những “điểm nghẽn”, “nút thắt”, mâu thuẫn, bất cập trong thể chế phát triển kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với đẩy mạnh khởi nghiệp sáng tạo, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng, phấn đấu sớm đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia hàng đầu về năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế sở hữu đất đai; hoàn thiện thể chế quản lý tài sản công trong hệ thống chính trị; chế định đúng, công khai, minh bạch quyền, quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng chủ thể, nhất là của Nhà nước với vai trò vừa là đại diện chủ sở hữu toàn dân, vừa là chủ thể sử dụng, đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước; chế định rõ, đầy đủ các chế tài yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước bảo vệ quyền tài sản, quyền sản xuất, kinh doanh và lợi ích chính đáng của các chủ thể, khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển hiệu quả, lành mạnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, trọng tâm là đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tăng nhanh quy mô và nội lực của nền kinh tế quốc gia

Xây dựng và thực thi hiệu quả cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình phát triển theo chiều sâu trên cơ sở đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao, đẩy mạnh khởi nghiệp sáng tạo. Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu và nâng cao chất lượng hệ thống doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước; tái cơ cấu và nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư, nhất là hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, sử dụng tài sản công.

Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, bảo đảm phù hợp và hiệu quả trong từng lĩnh vực; đồng thời, tích cực nghiên cứu xây dựng và đổi mới hệ thống quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối…), thích ứng với yêu cầu hội nhập quốc tế. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất, kinh doanh giữa các chủ thể theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro..., từ đó tạo lập các chuỗi sản xuất, kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững.

Sáu là, hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy xây dựng, phát triển nền kinh tế dân tộc trên cơ sở phát huy hiệu quả vai trò, sức mạnh của tất cả các khu vực, chủ thể và lực lượng kinh tế

Phát huy hơn nữa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân. Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân cả về quy mô và chất lượng, trở thành động lực trọng yếu đối với sự phát triển nền kinh tế đất nước; hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp lớn, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đủ sức tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế nhà nước; đẩy mạnh tái cơ cấu và hoàn thiện thể chế quản lý - quản trị doanh nghiệp nhà nước theo hướng xác định rõ vai trò, chức năng, mục tiêu của doanh nghiệp nhà nước trong từng lĩnh vực và từng giai đoạn. Trên cơ sở đó, xác định rõ mục tiêu, cơ chế, chính sách đẩy mạnh cổ phần hóa, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động đối với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện thể chế kết nối các khu vực kinh tế, chủ thể kinh tế thành một thực thể hữu cơ, gắn kết chặt chẽ, phát huy mạnh mẽ nội lực của nền kinh tế dân tộc, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển hợp tác - đối tác công tư, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội trong phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao tính độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc vào vốn đầu tư và thị trường nước ngoài.

Hoàn thiện thể chế khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy phát triển đội ngũ doanh nhân (trong đó có thế hệ khởi nghiệp sáng tạo) luôn gắn sự phát triển và lợi ích của mình với sự phát triển và lợi ích của dân tộc, là lực lượng chủ lực góp phần quan trọng vào quá trình hội nhập và “định vị” nền kinh tế Việt Nam trên thế giới.

Bảy là, hoàn thiện thể chế về thu hút và phát triển doanh nghiệp FDI trong giai đoan mới

Điều chỉnh định hướng chiến lược, cơ chế, chính sách, mục tiêu và tiêu chí thu hút FDI, đón nhận quá trình chuyển dịch các chuỗi cung ứng trong giai đoạn mới, bảo đảm phù hợp và hiệu quả trong từng lĩnh vực, theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả tổng hợp, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước; tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước, đa dạng hóa nguồn cung, cầu; giảm dần tỷ trọng gia công, lắp ráp với trình độ công nghệ thấp và trung bình. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khắc phục tình trạng chuyển giá, “lỗ giả, lãi thật”; thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp FDI trong phát triển công nghiệp phụ trợ, cung ứng đầu vào và tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Tám là, hoàn thiện thể chế hội nhập kinh tế quốc tế gắn với bảo vệ nền kinh tế dân tộc

Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo quy tắc và chuẩn mực cao, đáp ứng yêu cầu của các FTA thế hệ mới, phát huy tối đa nội lực, tận dụng cơ hội, kết hợp có hiệu quả với xu thế phát triển của thế giới, tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả vào các chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu; tăng cường thích ứng với “hàng rào” kỹ thuật mà các nước đặt ra; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu sản phẩm hàng hóa của đất nước; phòng, chống gian lận thương mại, kịp thời xử lý tranh chấp thương mại quốc tế. Đồng thời, xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách, giải pháp bảo vệ nền kinh tế dân tộc trong quá trình hội nhập, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực dự báo và phản ứng chính sách trước những biến đổi trong khu vực và trên thế giới.

Xây dựng, hoàn thiện mô hình, thể chế phát triển thích ứng hiệu quả với những biến động khó lường hiện nay. Để phát triển bền vững, Việt Nam cần đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng đa dạng hóa thị trường quốc tế; đẩy mạnh phát triển tiềm lực kinh tế dân tộc, nhất là lực lượng doanh nghiệp; tích cực tham gia vào các phân khúc có giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu; đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa, coi đây là nền tảng, động lực quan trọng để phát triển bền vững kinh tế - xã hội.


(*) Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Chủ nghĩa tư bản hiện đại - vai trò, tác động đến tiến trình phát triển của thế giới và định hướng chính sách của Việt Nam”; mã số KX.04.08/21-25.

1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 51.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 481.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, t. 67, tr. 118.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 139.

5. GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017 tương đương với GDP bình quân đầu người của Thái Lan năm 2003.

6. Chi phí trung gian là một thuật ngữ trong thống kê tài khoản quốc gia, phản ánh giá trị hàng hóa và dịch vụ sử dụng hết trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm mới trong một thời kỳ nhất định. Chi phí trung gian tính theo ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế. Chi phí trung gian không đồng nhất với chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ lệ chi phí trung gian tính toán từ bảng IO và SUT của Việt Nam và các nước.

7. Chênh lệch mức năng suất lao động (tính theo PPP 2011) của Singapore tăng từ 119.117 USD (năm 2008) lên 131.192 USD (năm 2017); Malaysia từ 43.731 USD lên 45.295 USD; Thái Lan tăng từ 14.930 USD lên 18.071 USD; Indonesia tăng từ 10.451 USD lên 13.555 USD; Philippines tăng từ 6.609 USD lên 8.385 USD (Nguồn số liệu: Cơ sở dữ liệu các chỉ số phát triển thế giới, Ngân hàng Thế giới).

8. Hệ số ICOR là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư để tăng thêm 1 đồng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ICOR thường tính cho giai đoạn vì: (1) Hiệu quả đầu tư thường có độ trễ; (2) Nếu tính hệ số ICOR cho 1 năm riêng lẻ, đồng thời tăng trưởng của năm đó âm (-) thì kết quả không có ý nghĩa (Ví dụ: trong trường hợp của Malaysia năm 2009 có tăng trưởng GDP là -1,51%, dẫn đến ICOR của năm này là -11,78%).

9. Tổng cục Thống kê: Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2020, năm 2021.

10. An Nhiên: Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có những bước chuyển mình tích cực, Cổng Thông tin điện tử Bộ Công Thương, ngày 09/5/2022, https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/ cong-nghiep-ho-tro-viet-nam-da-co-nhung-buoc-chuyen-minh-tich- cuc.html.

Tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của doanh nghiệp Việt Nam trong ngành điện tử đạt khoảng 5-10%; da giày đạt 30%; dệt may đạt 30%; công nghệ cao đạt khoảng 1-2%; cơ khí chế tạo khác đạt khoảng 15-20%...; Ngành chế tạo ô tô đạt khoảng 5-20%. Tuy nhiên, hiện nay, chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ôtô tại Việt Nam. So với Thái Lan, số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ôtô vẫn còn rất ít: Thái Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1, trong khi đó Việt Nam chỉ có gần 100 nhà cung cấp. Thái Lan có khoảng 1.700 nhà cung cấp cấp 2, 3, trong khi Việt Nam chỉ có gần 150 nhà cung cấp; giá trị sản xuất của công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp.

11. Xem thêm Tom G. Palmer: Thị trường và đạo đức, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2014.

PGS, TS. Trần Quốc Toản

Nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin