CT&PT - Đồng chí Lê Duẩn - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cộng sản kiên trung đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì lý tưởng cộng sản, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Từng đảm nhiệm nhiều vị trí chủ chốt, trên mỗi cương vị, đồng chí Lê Duẩn đều cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, trong đó có những cống hiến quan trọng của đồng chí trên lĩnh vực đối ngoại, không chỉ có ý nghĩa to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà đó còn là những bài học kinh nghiệm quý báu cho Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Duẩn trong công tác đối ngoại
Năm 1957, trước những chuyển biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, đồng chí Lê Duẩn được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cử tạm thời lãnh đạo công việc chung của Ban Bí thư và đảm nhận nhiệm vụ Phó Trưởng Ban chuẩn bị Văn kiện Đại hội III của Đảng. Đáp lại sự tín nhiệm và kỳ vọng mà Đảng và nhân dân giao phó, đồng chí Lê Duẩn đã dành hết tâm lực của mình góp phần chuẩn bị cho Đảng hoạch định chiến lược, giải quyết các vấn đề mà cách mạng Việt Nam đã và đang đặt ra. Bên cạnh những đóng góp lý luận về công tác đối ngoại được kết tinh trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí Lê Duẩn còn góp phần quan trọng trong việc cụ thể hóa những chủ trương, đường lối đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới với cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Trong quan hệ quốc tế giai đoạn nửa sau thế kỷ XX và trước Chiến tranh thế giới thứ hai, trên thế giới xuất hiện khuynh hướng “chung sống hòa bình”, vừa đấu tranh vừa hợp tác. Về vấn đề này, đồng chí Lê Duẩn cho rằng, “chiến lược đấu tranh cho hòa bình bao gồm một cách tất yếu chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau. Chính sách cùng tồn tại hòa bình phải là và chỉ có thể là một bộ phận nằm trong toàn bộ chiến lược đấu tranh cho hòa bình”1. Năm 1967, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: “Để ngăn ngừa một cuộc chiến tranh thế giới mới, giữ gìn hòa bình, cần tích cực chủ động chống lại và làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây chiến của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ cầm đầu… cần đẩy mạnh phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân trong các nước đế quốc”2. Với lập trường nhất quán, rõ ràng về chiến tranh và hòa bình, chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa, lúc bấy giờ, đường lối cách mạng của nước ta cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa yêu cầu chính đáng của nhân dân ta với nhân loại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt sự vận động của cách mạng Việt Nam trong dòng chảy phát triển của lịch sử, nhờ đó, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ ở nước Mỹ nói riêng và trên thế giới nói chung.
Thứ hai, kết hợp đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao. Tháng 01/1967, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Duẩn, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã thông qua Nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, trong đó nêu rõ: “Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa”3. Hội nghị xác định rõ vai trò, vị trí của từng hình thức đấu tranh: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường”4. Năm 1971, đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh, “vấn đề quan trọng hiện nay là làm thế nào ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao phối hợp nhịp nhàng ăn khớp với nhau để có thể nắm vững thời cơ và giành được thắng lợi lớn nhất”5. Lịch sử đã chứng minh rằng, để làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ, tất yếu phải triển khai cuộc đấu tranh trên cả ba mặt trận; đặc biệt, trong từng giai đoạn, cần xác định mặt trận mang tính chiến lược, từ đó đẩy mạnh tiến công trên mặt trận đó. Vào thời điểm quan trọng có ý nghĩa quyết định để kết thúc chiến tranh, đồng chí Lê Duẩn đã sáng suốt đưa ra nhận định: “Ở thời điểm này, Việt Nam không chỉ là vấn đề đối đầu giữa hai hệ thống thế giới, mà về khách quan, còn có một đối thủ quan trọng trong sự tính toán chiến lược của các thế lực tranh giành Đông Nam Á. Do đó, ta phải tranh thủ thời gian để kết thúc chiến tranh vì đây là thời cơ ngàn năm có một để cho ta giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”6.
Thứ ba, phát huy tinh thần quốc tế trong sáng, đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương và các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 12/1960, tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: “Tôn trọng và thi hành đầy đủ Hiệp nghị Giơnevơ về Việt Nam cũng như về Lào và Campuchia, chống ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam, đòi hòa bình thống nhất Việt Nam; chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai can thiệp vũ trang vào Lào; tăng cường quan hệ hữu nghị và phát triển sự hợp tác kinh tế và văn hóa với các nước láng giềng và các nước khác trên cơ sở năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình và mười nguyên tắc của Hội nghị Băngđung”7. Chiến thắng Sầm Nưa, Phông Sa Lỳ (năm 1953)… là minh chứng sống động, hùng hồn cho luận điểm này. Với quan điểm “Đông Dương là một chiến trường”, phát huy truyền thống đoàn kết chiến đấu, ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia tiếp tục phối hợp tác chiến trên khắp các chiến trường, khiến đế quốc Mỹ liên tiếp thất bại trên khắp các mặt trận ở cả ba nước. Đến cuối năm 1972, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Pari (ngày 2/01/1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và sau đó tiếp tục ký Hiệp định Viêng Chăn (ngày 21/02/1973) về lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào. Quan điểm và hoạt động quốc tế của đồng chí Lê Duẩn không chỉ góp phần quan trọng làm nên thành công của Đảng và Nhà nước ta trên mặt trận đối ngoại, mà còn góp phần củng cố tình đoàn kết giữa các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là góp phần củng cố tình đoàn kết giữa Đảng và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, cũng như tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
Thứ tư, bản lĩnh ngoại giao và tầm nhìn chiến lược. Ngoài việc vận động quốc tế ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến tranh chính nghĩa chống đế quốc Mỹ, đồng chí Lê Duẩn còn rất quan tâm đến vấn đề ngoại giao phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngay trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ về kinh tế, kỹ thuật của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa để xây dựng các công trình thiết yếu như: Nhà máy Gang thép Thái Nguyên (năm 1959), Nhà máy Phân đạm Hà Bắc (năm 1960) và một số xí nghiệp công nghiệp nhẹ…, tạo tiền đề để đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, trước sự bao vây, cấm vận của Mỹ và các thế lực thân Mỹ, nhờ sự vận động tích cực của Đảng và Chính phủ, Liên Xô đã giúp đất nước ta xây dựng nhiều công trình như: Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại (năm 1980), Thủy điện Hòa Bình (năm 1979), Thủy điện Trị An (năm 1982), Xi măng Bỉm Sơn (năm 1980)... Hiện nay, một số công trình như Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro (tiền thân là Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt - Xô, thành lập năm 1981), Thủy điện Hòa Bình… đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nước ta. Những hỗ trợ về vật chất, tinh thần mà Liên Xô, Trung Quốc… đã giúp chúng ta hoàn thành sứ mệnh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam sau 35 năm đổi mới
Trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, trong suốt tiến trình đổi mới đất nước, nhờ kiên định thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; với những chủ trương, chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, trên các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân đều đạt được nhiều thành tựu to lớn.
“Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác”8. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước9. Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng tại 111 quốc gia, Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài… Ngoài ra, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam; tham gia và có quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, cơ chế hợp tác kinh tế - phát triển hàng đầu thế giới10. Đặc biệt, chúng ta đã tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA “thế hệ mới”11…, nhờ đó, thị trường xuất khẩu được mở rộng, khả năng thu hút vốn nước ngoài gia tăng, năng lực cạnh tranh quốc gia thông qua hội nhập kinh tế quốc tế được nâng cao.
Chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc trên biển, trên không và trên bộ được bảo đảm. Việt Nam đã xây dựng được đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng. Trên biển, nước ta kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng của đất nước; kiên trì giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế. Với những vấn đề “nóng” về vấn đề lãnh thổ, trên cơ sở luật pháp quốc tế, chúng ta luôn giữ vững lập trường, tích cực, chủ động trao đổi, đàm phán, kiểm soát bất đồng, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài.
Vị thế của đất nước ta trên chính trường quốc tế không ngừng được nâng cao thông qua việc nâng tầm đối ngoại đa phương và đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách quốc tế quan trọng12. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và công tác bảo hộ công dân được triển khai tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng, đặc biệt là trong thời gian đại dịch Covid-19. Tính riêng giai đoạn 2015 - 2020, Nhà nước ta đã triển khai công tác bảo hộ đối với hơn 50.000 công dân, hơn 600 vụ việc/1.000 tàu với gần 10.000 ngư dân; tổ chức gần 800 chuyến bay đưa hơn 200.000 công dân về nước an toàn13.
Đặc biệt, ngành ngoại giao đã có đóng góp quan trọng trong triển khai hiệu quả ngoại giao y tế, ngoại giao vắcxin, vừa đóng góp có trách nhiệm vào nỗ lực chung của quốc tế, vừa tranh thủ được sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vắcxin, thiết bị y tế và thuốc điều trị Covid-19. Đến nay, nước ta đã nhận được hàng trăm triệu liều vắcxin và nhiều trang thiết bị y tế, đóng góp quan trọng cho công tác phòng, chống dịch đi đôi với phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Song song đó, Việt Nam cũng đã viện trợ vật tư y tế và tài chính cho hơn 50 quốc gia và tổ chức quốc tế, thể hiện rõ vai trò “thành viên có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế14.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam
Quán triệt đường lối đối ngoại mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”15; đồng thời, kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm đối ngoại của đồng chí Lê Duẩn, trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; chú trọng tăng cường đoàn kết, hợp tác, phát huy tinh thần quốc tế trong sáng. Trong đó, cần chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; chú trọng bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Hai là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương tương xứng với thế và lực mới của đất nước.
Ba là, không ngừng đổi mới, sáng tạo trong đối ngoại và ngoại giao. Tích cực bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức, chủ trương, sách lược ngoại giao, bảo đảm phù hợp với bối cảnh hiện nay. Thực hiện chiến lược ngoại giao “đi tắt, đón đầu” trong các lĩnh vực mới, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới như: ngoại giao công nghệ, môi trường, y tế, năng lượng…
Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đối ngoại đủ tài, có tâm và ngang tầm thời đại. Các cơ quan quản lý nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại toàn diện về phẩm chất, trình độ và năng lực. Đồng thời, bản thân đội ngũ cán bộ đối ngoại cần chủ động, tích cực rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, không ngừng phấn đấu, nâng tầm trí tuệ, vững vàng, tự tin, kiên định và đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
NGUYỄN CAO SIÊNG
Tạp chí Cộng sản
1, 2. Lê Duẩn: Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng ta, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1981, tr. 33.
3. Niên biểu toàn khóa Đại hội III, Báo điện tử Đảng Cộng sản Viêt Nam, ngày 12/5/2018, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-iii/nien-bieu-toan-khoa-23.
4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t. 28, tr. 174; 2004, t. 32, tr. 386-387.
6, 7. Lê Duẩn: Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng ta, Sđd, tr. 53, 50.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 69.
9. 5 nước thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ Nhóm Các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) và tất cả các thành viên ASEAN.
10. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
11. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
12. Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu. Việt Nam làm Chủ tịch Tổ chức Liên nghị viện ASEAN (AIPO, năm 2002); Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA, năm 2010 và 2020); Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 - 2021), chủ nhà APEC (năm 2006 và 2017); đăng cai thành công Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018; tổ chức tốt cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ hai (năm 2019)...
13, 14. Xem: Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 14/12/2021, https://baotintuc.vn/chinh-tri/phat-huy-vai-tro-tien-phong-cua-doi-ngoai-nang-cao-vi-the-va-uy-tin-cua-dat-nuoc-20211213203043926.htm.-ngoai-nang-cao-vi-the-va-uy-tin-cua-dat-nuoc-20211213203043926.htm, ngày 14/12/2021.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 331-332.