Đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

CT&PT - Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, đổi mới sáng tạo được xem là động lực cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng năng suất, nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tỉnh Bắc Ninh, với vai trò là một cực tăng trưởng công nghiệp quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đã hình thành hệ thống khu, cụm công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Bài viết phân tích thực trạng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp tại các khu, cụm công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, làm rõ những kết quả đạt được, những khó khăn còn tồn tại, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo của khu vực doanh nghiệp trong thời gian tới.

photo-1667290086633-1667290087448688883150-1752420614.jpg
Khu Công nghiệp VSIP Bắc Ninh.

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) không chỉ là một yêu cầu cấp thiết trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt mà còn là yếu tố sống còn đối với sự phát triển dài hạn của doanh nghiệp. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), ĐMST bao gồm toàn bộ quá trình tạo ra, phổ biến và ứng dụng tri thức mới nhằm tạo giá trị (OECD, 2005). Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các khu, cụm công nghiệp - nơi tập trung cao độ các hoạt động sản xuất thì đổi mới sáng tạo càng đóng vai trò then chốt trong nâng cao năng suất, giảm chi phí, thích ứng nhanh với biến động thị trường và xu thế công nghệ.

Bắc Ninh là một tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa nhanh bậc nhất cả nước, với hệ thống khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) phát triển mạnh. Tính đến hết năm 2024, tỉnh có 16 KCN được phê duyệt quy hoạch, trong đó có 11 KCN đang hoạt động với tỷ lệ lấp đầy trung bình trên 90%, thu hút hàng nghìn doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tạo việc làm cho hàng trăm nghìn lao động (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2024). Tuy nhiên, mức độ đổi mới sáng tạo giữa các doanh nghiệp trong các KCN, CCN còn chênh lệch lớn, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) còn hạn chế trong năng lực đổi mới.

1. Thực trạng đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp tại khu, cụm công nghiệp tỉnh Bắc Ninh

Trong hành trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Bắc Ninh nổi lên như một điểm sáng về phát triển công nghiệp, đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài và hình thành các khu công nghiệp quy mô lớn, có sức lan tỏa cao. Không gian công nghiệp của tỉnh không ngừng mở rộng, kéo theo sự hội tụ của nhiều doanh nghiệp có tiềm lực, góp phần tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế địa phương. Trong dòng chảy phát triển đó, đổi mới sáng tạo đang dần trở thành một yêu cầu khách quan, một xu thế tất yếu, nhưng cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các khu, cụm công nghiệp.

Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp đã bắt đầu chuyển dịch tư duy từ sản xuất gia công sang phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đồng thời đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đặc biệt là các tập đoàn công nghệ lớn, đã đóng vai trò dẫn dắt trong hoạt động đổi mới sáng tạo, tạo ra môi trường cạnh tranh tích cực và tạo hiệu ứng lan tỏa về công nghệ, phương thức quản lý và văn hóa đổi mới cho các doanh nghiệp nội địa.

Tuy nhiên, bức tranh tổng thể về năng lực đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp tại khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều khoảng trống. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn đang loay hoay với các bài toán ngắn hạn như giảm chi phí, duy trì thị trường truyền thống, hoặc đối phó với biến động lao động và thiếu hụt vốn. Trong bối cảnh đó, đổi mới sáng tạo nhiều khi bị xem như một mục tiêu xa xỉ, vượt ngoài khả năng thực thi về tài chính, nhân lực cũng như trình độ công nghệ.

Không ít doanh nghiệp còn gặp trở ngại trong việc tiếp cận tri thức công nghệ mới, do thiếu đội ngũ nhân lực chất lượng cao và chưa có chiến lược phát triển dài hạn dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ. Các hoạt động đổi mới chủ yếu mang tính nhỏ lẻ, thiếu sự đầu tư bài bản và không được tích hợp vào định hướng chiến lược tổng thể của doanh nghiệp. Sự thiếu vắng của các trung tâm hỗ trợ công nghệ, các mạng lưới tư vấn đổi mới sáng tạo và cơ chế kết nối doanh nghiệp với viện nghiên cứu, trường đại học cũng khiến cho quá trình chuyển giao tri thức và công nghệ còn rời rạc, thiếu chiều sâu.

Ở góc độ thể chế, mặc dù tỉnh Bắc Ninh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhưng mức độ lan tỏa của chính sách đến từng doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Một bộ phận doanh nghiệp còn chưa tiếp cận đầy đủ các cơ chế hỗ trợ từ Nhà nước, chưa thực sự hiểu rõ giá trị của đổi mới sáng tạo đối với năng suất và lợi thế cạnh tranh trong dài hạn. Trong khi đó, sự thiếu hụt các tổ chức trung gian có chức năng hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động đổi mới, như các vườn ươm công nghệ, trung tâm sáng tạo hoặc cụm liên kết ngành trong khu công nghiệp, đã khiến cho quá trình đổi mới diễn ra thiếu tính hệ thống và thiếu động lực cộng hưởng.

Thêm vào đó, mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng khu, cụm công nghiệp vốn được kỳ vọng sẽ tạo ra hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả. Tình trạng “mạnh ai nấy làm”, thiếu tin cậy và thiếu chia sẻ thông tin, công nghệ vẫn tồn tại khá phổ biến, khiến các doanh nghiệp khó có thể tận dụng được nguồn lực chung cũng như học hỏi lẫn nhau. Sự rời rạc trong kết nối giữa khu vực doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trên địa bàn càng làm cho khoảng cách giữa hoạt động sản xuất và nghiên cứu ngày càng bị kéo dài.

Có thể nói, mặc dù đổi mới sáng tạo đã được đặt vào trung tâm trong các chiến lược phát triển kinh tế quốc gia cũng như định hướng phát triển của tỉnh Bắc Ninh, nhưng hiện thực hóa nó trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn là một chặng đường dài. Bức tranh hiện tại là sự đan xen giữa những điểm sáng nổi bật - nơi doanh nghiệp chủ động đầu tư, ứng dụng công nghệ mới và những mảng tối khi đổi mới vẫn còn bị trì hoãn bởi giới hạn về nguồn lực, nhận thức và hệ sinh thái hỗ trợ. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc thiết lập một nền tảng thể chế vững chắc, cùng với đó là những cơ chế khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy đổi mới một cách chủ động, bền vững và toàn diện hơn trong thời gian tới.

2. Một số giải pháp thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu, cụm công nghiệp tại Bắc Ninh

Để đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực tăng trưởng bền vững và năng lực cạnh tranh cốt lõi của các doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cần có những giải pháp toàn diện, đồng bộ và có tính hệ thống, với sự vào cuộc tích cực của cả Nhà nước, doanh nghiệp và các chủ thể liên quan. Trên cơ sở nhận diện các rào cản và yêu cầu thực tiễn, có thể đề xuất một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, hoàn thiện thể chế và cơ chế chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo gắn với phát triển công nghiệp.

Đổi mới sáng tạo không thể phát huy hiệu quả nếu thiếu nền tảng thể chế minh bạch, ổn định và khuyến khích sáng tạo. Vì vậy, chính quyền tỉnh Bắc Ninh cần tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch và chính sách chuyên biệt nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Cụ thể, cần xây dựng các quy định về ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực R&D, chính sách thuế cho doanh nghiệp có hoạt động sáng chế, chuyển giao công nghệ, đổi mới sản phẩm.

Bên cạnh đó, cần sớm ban hành hoặc cụ thể hóa các chính sách khuyến khích thành lập và phát triển các khu công nghiệp đổi mới sáng tạo, khu công nghệ cao cấp tỉnh; cơ chế ưu đãi cho doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp khi đầu tư vào các lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao. Ngoài ra, tỉnh cần xây dựng các quy trình thủ tục hành chính tinh gọn, số hóa, minh bạch, góp phần giảm thời gian và chi phí giao dịch cho doanh nghiệp trong quá trình đổi mới.

Hai là, tăng cường hỗ trợ tài chính và thúc đẩy huy động nguồn vốn xã hội cho hoạt động đổi mới sáng tạo.

Vấn đề thiếu vốn luôn là rào cản hàng đầu khiến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ - không dám hoặc không đủ khả năng triển khai đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm mới hay thành lập bộ phận R&D chuyên trách. Do đó, Nhà nước cần đóng vai trò định hướng và “kích hoạt” dòng vốn đầu tư vào hoạt động đổi mới thông qua các công cụ tài chính cụ thể.

Tỉnh Bắc Ninh cần nghiên cứu thành lập quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo cấp địa phương, hoạt động theo cơ chế linh hoạt, kết nối với các quỹ khoa học - công nghệ cấp Trung ương và các chương trình tài trợ của quốc tế. Đồng thời, khuyến khích các tổ chức tín dụng triển khai các gói tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, hỗ trợ bảo lãnh vay vốn, bảo hiểm rủi ro cho hoạt động R&D. Ngoài ra, cần mở rộng cơ hội huy động vốn xã hội thông qua các mô hình hợp tác công - tư (PPP), thu hút đầu tư mạo hiểm vào các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong các khu công nghiệp.

Ba là, nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp trong quản trị đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực.

Đổi mới sáng tạo trước hết phải xuất phát từ nội lực của chính doanh nghiệp, đặc biệt là năng lực quản trị sáng tạo, khả năng xác định chiến lược đổi mới phù hợp, bố trí nguồn lực hiệu quả và tổ chức thực thi một cách linh hoạt. Do vậy, việc xây dựng và phát triển năng lực đổi mới sáng tạo nội sinh cần được doanh nghiệp xem như một mục tiêu ưu tiên dài hạn.

Cùng với việc khuyến khích doanh nghiệp thiết lập bộ phận nghiên cứu - phát triển (R&D), áp dụng các hệ thống quản trị hiện đại như ISO, TPM, ERP, cần tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng sáng tạo, tư duy thiết kế (design thinking), năng lực quản trị công nghệ cho đội ngũ cán bộ quản lý cấp trung và cao cấp. Ngoài ra, tỉnh cần hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển nhân lực phù hợp với định hướng đổi mới, tập trung đào tạo kỹ sư, kỹ thuật viên có trình độ chuyên môn cao, am hiểu công nghệ số và có khả năng vận hành thiết bị công nghệ tiên tiến.

Bốn là, phát triển hạ tầng đổi mới sáng tạo trong lòng các khu, cụm công nghiệp.

Bên cạnh cơ sở hạ tầng sản xuất truyền thống, cần chú trọng phát triển hạ tầng hỗ trợ đổi mới sáng tạo, coi đây là nền tảng để hình thành hệ sinh thái sáng tạo trong khu, cụm công nghiệp. Theo đó, tỉnh cần quy hoạch và đầu tư xây dựng các trung tâm nghiên cứu - phát triển, trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, phòng thí nghiệm dùng chung, không gian sáng tạo mở (open space), khu làm việc chung (co-working space), khu thử nghiệm sản phẩm (pilot zone) trong hoặc liền kề các khu công nghiệp trọng điểm như Yên Phong, Tiên Sơn, Quế Võ.

Những thiết chế này sẽ đóng vai trò là “trạm trung chuyển tri thức”, nơi doanh nghiệp có thể tiếp cận công nghệ mới, thử nghiệm ý tưởng sản phẩm, được tư vấn chuyên môn, hỗ trợ kiểm định và hoàn thiện quy trình trước khi thương mại hóa. Đồng thời, cần đẩy mạnh số hóa hạ tầng kết nối các khu công nghiệp thông minh trên nền tảng công nghệ số, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo nhằm tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo trong quản lý, vận hành và phát triển chuỗi giá trị.

Năm là, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong doanh nghiệp công nghiệp.

Chuyển đổi số không chỉ là xu hướng, mà còn là điều kiện tiên quyết để đổi mới sáng tạo diễn ra nhanh chóng, hiệu quả và có khả năng nhân rộng. Với các doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp Bắc Ninh, việc số hóa quy trình sản xuất, vận hành, quản trị, tài chính - kế toán, chăm sóc khách hàng sẽ tạo tiền đề cho việc tái cấu trúc mô hình kinh doanh, phát triển sản phẩm và thị trường mới.

Tỉnh cần đẩy mạnh triển khai các chương trình chuyển đổi số trong doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ doanh nghiệp lựa chọn giải pháp công nghệ phù hợp, đào tạo kỹ năng số cho người lao động, đồng thời xây dựng nền tảng dữ liệu kết nối các doanh nghiệp trong cùng chuỗi cung ứng. Mặt khác, cần phát triển các công cụ số dùng chung như sàn giao dịch công nghệ, sàn thương mại điện tử công nghiệp, hệ thống truy xuất nguồn gốc, nền tảng tích hợp thông tin chuỗi cung ứng nhằm tăng cường tính minh bạch, hiệu quả và tương tác trong toàn bộ hệ sinh thái công nghiệp của tỉnh.

Sáu là, phát triển liên kết giữa doanh nghiệp - viện - trường - nhà nước trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hiệu quả không thể thiếu sự kết nối giữa các chủ thể tri thức và chủ thể sản xuất. Tỉnh Bắc Ninh cần đóng vai trò “cầu nối” giữa doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, trường đại học trên địa bàn và trong cả nước, thông qua các chương trình liên kết nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đào tạo thực hành, hợp tác phát triển sản phẩm mới.

Các mô hình hợp tác ba bên (triple helix) cần được thể chế hóa bằng các chương trình cụ thể, có hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và quản lý. Đồng thời, cần tạo điều kiện cho các tổ chức trung gian, như hiệp hội doanh nghiệp, trung tâm xúc tiến công nghệ, vườn ươm khởi nghiệp tham gia vào quá trình kết nối, tư vấn, hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Ngoài ra, nên hình thành các cụm liên kết ngành theo chiều sâu, gắn kết các doanh nghiệp cùng lĩnh vực để cùng chia sẻ kinh nghiệm, chi phí R&D và cơ hội tiếp cận thị trường.

Bảy là, xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp và cộng đồng sản xuất công nghiệp.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, để đổi mới sáng tạo trở thành hành vi thường trực của doanh nghiệp, cần hình thành một nền văn hóa khuyến khích tư duy mở, tinh thần cải tiến liên tục, chấp nhận rủi ro có kiểm soát và sẵn sàng học hỏi. Tỉnh Bắc Ninh có thể tổ chức các giải thưởng đổi mới sáng tạo, các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm cải tiến trong doanh nghiệp công nghiệp, xây dựng các tấm gương điển hình về sáng chế, sáng tạo, khởi nghiệp để truyền cảm hứng trong cộng đồng doanh nghiệp.

Việc kết hợp giữa yếu tố kỹ thuật (hạ tầng, công nghệ, vốn) và yếu tố mềm (văn hóa, tinh thần đổi mới, quản trị sáng tạo) sẽ là chìa khóa để tạo nên một hệ sinh thái đổi mới bền vững. Trong đó, mỗi doanh nghiệp phải đóng vai trò trung tâm, còn chính quyền, tổ chức trung gian và các chủ thể tri thức cần là lực lượng đồng hành và hỗ trợ tích cực.

Tóm lại, đổi mới sáng tạo ngày nay không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành đòi hỏi tất yếu đối với mọi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại, thích ứng và phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh toàn cầu khốc liệt, biến động nhanh chóng dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với Bắc Ninh - một địa phương có tốc độ công nghiệp hóa cao, hệ thống khu, cụm công nghiệp phát triển mạnh, việc nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp không chỉ là điều kiện để duy trì vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, mà còn là giải pháp trọng yếu để tái cơ cấu công nghiệp theo hướng giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững.

Bức tranh thực tiễn tại Bắc Ninh cho thấy, bên cạnh những điểm sáng đáng ghi nhận từ một số doanh nghiệp lớn, đặc biệt là khối FDI, phần lớn doanh nghiệp nội địa – nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa – vẫn còn đối mặt với nhiều rào cản trong triển khai đổi mới sáng tạo, từ hạn chế về tài chính, nhân lực, công nghệ cho đến thể chế hỗ trợ và mức độ liên kết với các chủ thể nghiên cứu – đào tạo. Sự thiếu hụt về hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đồng bộ, sự rời rạc trong kết nối và việc chưa hình thành một nền văn hóa đổi mới sâu rộng đang cản trở quá trình chuyển dịch của doanh nghiệp từ mô hình sản xuất truyền thống sang mô hình kinh doanh dựa trên tri thức và công nghệ.

Trên cơ sở phân tích những rào cản và tiềm năng, bài viết đã đề xuất một số nhóm giải pháp mang tính hệ thống và khả thi nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp tại Bắc Ninh. Đó là các giải pháp về hoàn thiện thể chế; tăng cường hỗ trợ tài chính và huy động nguồn vốn xã hội; nâng cao năng lực nội tại doanh nghiệp; phát triển hạ tầng đổi mới sáng tạo; thúc đẩy chuyển đổi số; tăng cường liên kết giữa các chủ thể trong hệ sinh thái sáng tạo; và xây dựng văn hóa đổi mới trong cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp.

Để hiện thực hóa các giải pháp nêu trên, cần có sự cam kết chính trị mạnh mẽ từ phía chính quyền địa phương, sự chủ động chiến lược từ phía doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ tích cực từ các tổ chức trung gian, viện nghiên cứu, trường đại học và các đối tác trong nước, quốc tế. Quan trọng hơn, cần có sự thay đổi tư duy phát triển: từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu; từ tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ sang tăng trưởng dựa vào năng suất, công nghệ và sáng tạo; từ nền công nghiệp lắp ráp, gia công sang nền công nghiệp đổi mới và sáng tạo, có khả năng định hình giá trị.

Trong tương lai gần, nếu những giải pháp được hiện thực hóa một cách quyết liệt, có lộ trình và đồng bộ, Bắc Ninh hoàn toàn có thể chuyển mình từ một trung tâm sản xuất công nghiệp truyền thống thành một cực tăng trưởng dựa trên tri thức và công nghệ, nơi đổi mới sáng tạo trở thành giá trị cốt lõi, là DNA của cộng đồng doanh nghiệp. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, gắn với nâng cao năng lực nội sinh, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng mà Đảng và Nhà nước đã xác định trong các văn kiện Đại hội XIII và Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin