Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bản tổng kết lý luận và thực tiễn về cách mạng Việt Nam

CT&PT - Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta bản Di chúc thiêng liêng. Đó là lời căn dặn cuối cùng của Người với hậu thế, gửi gắm tình cảm, niềm tin của Người đối với toàn Đảng, toàn dân và các thế hệ người Việt Nam. Đây là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh tinh hoa đạo đức, tâm hồn cao đẹp và những quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời vạch ra phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam ở cả hiện tại và tương lai. Bài viết tập trung làm rõ những kết tinh lý luận và thực tiễn về cách mạng Việt Nam trong bản Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

1. Những kết tinh lý luận và thực tiễn về cách mạng Việt Nam

Trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh, Di chúc là tác phẩm khiến Người suy ngẫm, trăn trở lâu nhất, được khởi thảo và hoàn thiện trong 4 năm (1965 - 1969), thể hiện sâu sắc tâm nguyện, tình cảm của Người đối với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Mặc dù, Người khiêm nhường viết: “Tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi”, cho “đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng”1, song tư tưởng chủ đạo và bao trùm trong bản Di chúc của Người vô cùng rộng lớn và sâu sắc, đó là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và tiến bộ xã hội - những mục tiêu vĩ đại của cách mạng Việt Nam và cũng là những mục tiêu cao cả của thời đại. Di chúc là bản tổng kết lý luận và thực tiễn về sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, về Đảng, về đất nước, nhân dân và tinh thần quốc tế cao cả; đồng thời là một “bản thiết kế” lý luận về đổi mới và phát triển, định hướng cho con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, hướng đến mục tiêu cao nhất là giành độc lập dân tộc và đem lại hạnh phúc cho nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu sâu sắc cuộc sống nô lệ, lầm than của nhân dân Việt Nam dưới chế độ thực dân, phong kiến. Do đó, theo Người, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người là xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó, nhiệm vụ đầu tiên là phải giành được độc lập cho dân tộc. Người bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”2.

Với lòng yêu nước nhiệt thành, cùng khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách nô lệ, lầm than, trải qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Người khẳng định: “Muốn cách mệnh thành công… thì phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”3, sau này Người nói rõ hơn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”4. Việc lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản thể hiện tư duy nhạy bén và tầm nhìn chiến lược của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, phù hợp với thực tiễn đất nước, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đó là con đường cách mạng giải phóng dân tộc do đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Hiện thực hóa con đường cách mạng vô sản vào tình hình thực tiễn của Việt Nam, trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập (1930 - 1945), Hồ Chí Minh xác định độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, trước hết và trên hết, đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo, chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến lên. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (năm 1930) xác định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”5. Trong thời kỳ trực tiếp đấu tranh giành chính quyền (1939 - 1945), trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I (tháng 5/1941) khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”6. Nhờ có đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh thời đại, Đảng ta đã phát động toàn thể dân tộc đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trong bản Tuyên ngôn độc lập công bố trước toàn thể quốc dân (ngày 02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”7.

Song, với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, toàn thể dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên bảo vệ độc lập dân tộc. Kháng chiến ngày càng quyết liệt, thế và lực của ta ngày càng mạnh, “như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái”8. Để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn, Trung ương Đảng quyết định tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ II (tháng 02/1951). Theo đó, Đại hội quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một đảng, đồng thời đưa Đảng ta ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội thông qua Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, xác định tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là cách mạng dân tộc dân chủ, giai đoạn thứ hai là cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai giai đoạn này có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau. Đây là quan điểm hết sức đúng đắn, sáng tạo, được Người giải thích rõ hơn trong tác phẩm Thường thức chính trị, đăng trên Báo Cứu quốc, từ ngày 16/01 đến ngày 23/9/1953: “Cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có ruộng”, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải bảo vệ tư sản dân tộc, vì họ cũng chống đế quốc, chống phong kiến và họ là một lực lượng để phát triển công nghệ, nông nghiệp và thương nghiệp. Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản”9. Như vậy, trong bước thứ nhất của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; bước thứ hai là “tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản”.

Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) xác định mục tiêu đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân là nỗi trăn trở lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự nghiệp vĩ đại đó đòi hỏi sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, nhất là sự nỗ lực, cố gắng, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trải qua 10 năm phấn đấu gian khổ (1954 -1964), “miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”10. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam cũng không ngừng phát triển. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản.

Nhận thấy tuổi đã cao, sức khỏe có phần giảm sút, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định “để lại mấy lời” phòng khi đi xa để “đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”11. “Mấy lời” này chính là bản Di chúc thiêng liêng Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước lúc đi về cõi vĩnh hằng. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang diễn ra hết sức quyết liệt, nhưng với tầm nhìn xa, trông rộng, Người khẳng định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn… Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”12. Không chỉ khẳng định sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đưa ra những chỉ dẫn sâu sắc về xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và phác thảo lý luận đổi mới ở Việt Nam. Nội dung Di chúc là sự kết tinh tư tưởng của Người về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; về vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; về mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trong xây dựng xã hội mới; về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; về động lực, lợi ích và sự nghiệp chăm lo cuộc sống của con người; về tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc và là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.

Có thể nói, Di chúc là một bản kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân ta về công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, với những chỉ dẫn cụ thể về quản lý xã hội như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; sửa đổi chế độ giáo dục để phù hợp với hoàn cảnh mới; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; miễn thuế nông nghiệp cho nông dân; thực hiện chính sách xã hội và bảo đảm công bằng xã hội... Bên cạnh đó, Di chúc cũng chứa đựng những vấn đề cốt yếu về xây dựng nền văn hóa mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Người chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hóa Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động giáo dục văn hóa trong toàn xã hội. Qua lời dặn dò về việc riêng, Người còn đề cập việc xây dựng một đời sống văn hóa mới; lối sống tiết kiệm, tránh lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và môi trường sinh thái.

Di chúc đã phác thảo những vấn đề cần phải đổi mới sau chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đổi mới là yêu cầu tất yếu để phát triển, là một quá trình đấu tranh bền bỉ, gay go, “là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”13, “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”14. Người yêu cầu Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Để “giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này”15, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong điều kiện, hoàn cảnh nước ta, phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của nhân dân, phải “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”16.

Cùng với những phương hướng và giải pháp về xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng như sự phác thảo ban đầu về lý luận đổi mới ở Việt Nam, những lời cuối cùng trong Di chúc của Người đã khẳng định mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà dân tộc Việt Nam hướng tới: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”17. Đó cũng chính là mục tiêu của công cuộc đổi mới hiện nay.

2. Những kết tinh lý luận và thực tiễn về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền

Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của đảng cách mạng và xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, ra sức xây dựng Đảng thành một đảng thật sự cách mạng. Người nêu rõ: Cách mạng “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”18. Đảng Cộng sản Việt Nam “là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam”19. Song, Người cũng sớm cảnh báo: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”20.

Mở đầu những vấn đề được đề cập trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trước hết nói về Đảng”. Qua đó cho thấy, bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của Đảng chính là nỗi băn khoăn, trăn trở, đau đáu của Người trước lúc đi xa. Không phải ngẫu nhiên mà Người khẳng định “Đảng ta là một đảng cầm quyền”21. Đảng cầm quyền là một khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Nói đến vị trí “cầm quyền” của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt khẳng định vị trí, vai trò to lớn của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, cho rằng nhiệm vụ của Đảng rất vẻ vang, song cũng rất nặng nề; mặt khác, Người muốn chúng ta thấu hiểu rằng, trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng sẽ có những thuận lợi và thách thức mới. Khi trở thành đảng cầm quyền, những “căn bệnh” như quan liêu, tự mãn, chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền... có điều kiện phát triển trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và ngay cả trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nếu không tích cực, chủ động khắc phục những “căn bệnh” đó, có thể dẫn đến nguy cơ Đảng sai lầm về đường lối, bao biện, làm thay Nhà nước, “đảng trị”, hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Những vấn đề đó không chỉ làm suy yếu Đảng, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò, chức năng, sức mạnh của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của cách mạng.

Là lãnh tụ của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền trên cơ sở cách mạng xã hội, phát huy sức mạnh đoàn kết, năng lực sáng tạo vĩ đại của nhân dân để lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, xác lập quyền lãnh đạo của Đảng. Trở thành đảng cầm quyền, để thực hiện sứ mệnh của mình, Đảng phải dựa vào sức mạnh của nhân dân cũng như sự ủng hộ của nhân dân. Đảng viên và các tổ chức đảng phải ra sức xây dựng đạo đức, văn hóa và năng lực cầm quyền thông qua việc thực hiện tốt bốn chữ “thật”: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”22.

“Thật” đối lập với giả dối; “thật sự” đối lập với qua loa, nửa vời, không đến nơi, đến chốn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”23. Vì vậy, trong Di chúc, Người nhấn mạnh yêu cầu quá trình thực hiện đường lối, chủ trương, quá trình rèn luyện của Đảng và mỗi đảng viên phải thực chất, không được qua loa, nửa vời, phải xứng đáng là người đảng viên của đảng cầm quyền, và như thế mới góp phần xây dựng Đảng vững mạnh, xứng đáng là đảng cầm quyền.

Với chữ “thật” thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng. Từ ý thức đề cao vị trí, vai trò của đạo đức, đồng thời khẳng định người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên trước hết phải trau dồi đạo đức cách mạng, coi đó là một trong những điều kiện tiên quyết để trở thành người cách mạng chân chính. Người nhấn mạnh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”24.

Với chữ “thật” thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Qua đó, khẳng định tầm quan trọng của cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và Đảng ta nói chung, là những chuẩn mực giá trị và nguyên tắc ứng xử, hành động mà người cách mạng cần phải có. Để có được những phẩm chất đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải trải qua rèn luyện, thử thách. Đó chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Người khẳng định, muốn nâng cao đạo đức cách mạng, cần phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của Đảng, dân tộc; chủ nghĩa cá nhân trái với chủ nghĩa tập thể. Người coi chủ nghĩa cá nhân là “một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”25; là “bệnh thối nát hủ bại”, là “bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác”26. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân phải được thực hiện thực chất, thường xuyên, suốt đời, vì đó là cuộc đấu tranh chống lại và vượt qua những sự xấu xa, hư hỏng của chính mình.

Với chữ “thật” thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”. Trong sạch là một phẩm chất đạo đức. Đảng trong sạch trước hết thể hiện ở đạo đức, lối sống, tư cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng các cấp, ở sự không tập nhiễm, phát hiện kịp thời và kiên quyết sửa chữa những thói xấu: quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng... Người khẳng định, Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Cán bộ, đảng viên tuyệt đối không được quên lý tưởng cao cả của mình là hết lòng, hết sức phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta. Đảng và mỗi đảng viên của Đảng phải coi việc phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân là trách nhiệm, vinh dự và hạnh phúc của mình.

Do vậy, hơn bao giờ hết, Đảng cầm quyền càng phải phấn đấu, rèn luyện để trở thành một đảng thật sự trong sạch, người đảng viên phải nâng cao hơn nữa “tính Đảng” trong mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”27. Vì vậy, Người chỉ dẫn: “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng... Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”” 28.

Với chữ “thật” thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Luận điểm này là một sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong tính hiện thực của công tác xây dựng Đảng, Người sử dụng tư duy biện chứng để khái quát thành hai nhiệm vụ, hai vị trí khác nhau trong cùng một chủ thể. Đảng vừa là người lãnh đạo (cầm quyền, nắm quyền lực), vừa là người đầy tớ (phục vụ, tuân thủ mệnh lệnh) trước nhân dân. Là người lãnh đạo nhân dân, Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Là người đầy tớ của nhân dân, Đảng phải phục vụ nhân dân. Hai vị trí này tuy có vẻ đối lập, song đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc, khi khẳng định: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là

Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”29. Thay vì tách rời hai vấn đề trên, Người đã tạo ra một hợp điểm biện chứng giữa đạo đức với chính trị, giữa trí tuệ và bản lĩnh của Đảng, giữa đường lối lãnh đạo của Đảng với thực tiễn sinh động của nhân dân. “Văn hóa cầm quyền, văn hóa Đảng” tất yếu phải giải quyết tốt mối quan hệ đó.

3. Những kết tinh lý luận và thực tiễn về sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc là sức mạnh tổng hợp của các cộng đồng quốc gia, dân tộc và các dân tộc trong cùng một quốc gia. Sức mạnh đó được biểu hiện thông qua sức mạnh của thể chế chính trị, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh của truyền thống và các giá trị văn hóa. Trong đó, yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Người khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”30, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”31.

Tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết có thể bình dị như chia sẻ ngọt bùi, “tối lửa tắt đèn” có nhau, song đoàn kết cũng là tinh thần chung sức, đồng lòng, kề vai sát cánh trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù. Đã có biết bao anh hùng, hào kiệt không chỉ dùng giáo, gươm để chiến đấu với quân thù, mà còn sử dụng ngòi bút của mình để thể hiện tinh thần yêu nước, khẳng định chủ quyền quốc gia - dân tộc.

Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc, là động lực, cội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản không bỏ lỡ dịp lợi dụng sự nghi kỵ lẫn nhau đó và sự phân biệt đẳng hạng giả tạo về nòi giống đó để ngăn cản việc tuyên truyền và để chia rẽ những lực lượng đáng phải đoàn kết lại”32. Do đó, các lực lượng cách mạng phải đoàn kết lại để tạo nên sức mạnh chống kẻ thù chung. Trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp (năm 1923), Người nhấn mạnh: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”33. Theo Người, muốn đoàn kết dân tộc, trước hết phải đoàn kết trong Đảng. Sự hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của Người là một biểu hiện sinh động của tinh thần đoàn kết. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề đoàn kết trong Đảng, chỉ rõ vai trò của đoàn kết đối với Đảng: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”34.

Để gìn giữ truyền thống đoàn kết và phát huy vai trò của Đảng, trong điều kiện mới sau khi chiến tranh kết thúc, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết, trên cơ sở tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người yêu cầu “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”35; cần thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”36, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân để Đảng ta xứng tầm là một đảng cầm quyền, “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”37. Với tư cách là một đảng cầm quyền trong điều kiện mới, Đảng ta phải có những chính sách phù hợp với thực tiễn đất nước, bối cảnh thời đại, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Đó là cách tốt nhất để tập hợp lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong Di chúc, Người đã đề ra các chính sách cụ thể đối với các tầng lớp nhân dân: với đoàn viên thanh niên, “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên””38; với thương binh, thân nhân gia đình thương binh, liệt sĩ, “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở”39; với bộ đội và thanh niên xung phong, “Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc”40, trở thành nòng cốt của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; với phụ nữ, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”41; với nông dân, Đảng và Nhà nước cần có chính sách miễn thuế nông nghiệp, “để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”42; với những nạn nhân của chế độ cũ, “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”43… Thông qua những chính sách đó để quy tụ được sức mạnh toàn dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, trong xu thế mới của thời đại, khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, nhất thiết phải đoàn kết quốc tế. Người thường xuyên quan tâm, vun đắp tình đoàn kết quốc tế, nhằm tranh thủ cao nhất sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Người chính là một hình ảnh sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế.

Thực tiễn lịch sử dân tộc đã chứng minh, Việt Nam có thể chiến thắng những kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta nhiều lần là nhờ dân tộc ta luôn đoàn kết, đồng lòng, đồng thời có sự ủng hộ, đoàn kết, giúp đỡ của các dân tộc trên thế giới. Bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các dân tộc anh em trên thế giới đã giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, một trong những dự định đầu tiên sau khi chiến tranh kết thúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”44. Đó chính là đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” - một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân mẫu mực của truyền thống đó.

Với phong trào cách mạng thế giới nói chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế. Thông qua các tác phẩm, bài báo, bài nói chuyện và bằng hoạt động thực tiễn, Người kêu gọi các dân tộc, các đảng cộng sản anh em trên thế giới đoàn kết, cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định. Trước sự mất đoàn kết của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Người bộc bạch: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!”45. Vì lý do sức khỏe, không thể tiếp tục thực hiện “sứ mệnh hòa bình”, khôi phục tình đoàn kết giữa các đảng anh em, Người căn dặn Đảng ta phải “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”46. Người tin tưởng rằng “các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”47.

Có thể khẳng định, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tình cảm to lớn, niềm tin yêu sâu sắc của Người dành cho Đảng, dân tộc, mà còn là ngọn đèn soi sáng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn nửa thế kỷ qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn phát huy cao độ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, luôn gắn đoàn kết trong Đảng với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, làm nên những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong công cuộc đổi mới và hội nhập, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như ước nguyện thiêng liêng của Người lúc sinh thời.


1, 11, 21, 34, 35. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 15, tr. 611.

2, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187, 3.

3, 18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 304, 289.

4, 5, 10, 19, 24, 31. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 30; t. 3, tr. 1; t. 14, tr. 275; t. 7, tr. 41; t. 11, tr. 601; t. 13, tr. 119.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 7, tr. 113.

8, 20, 25, 27, 28. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 355, 301, 290, 290-291.

9, 26. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 254, 156.

12, 37, 38. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 612.

13, 39. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616.

14, 15, 16, 41, 42, 43. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 617.

17, 23, 40, 44. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 614, 672, 616-617, 618.

22, 36. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611-612.

29, 30. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518, 145.

 

32, 33. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 81, 209.

45, 46, 47. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 613.

TS. VÕ VĂN BÉ
Phó Giám đốc - Phó Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
TS. PHAN DUY ANH
Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

 

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin