CT&PT - Hiện nay, đất nước ta đang ở vào giai đoạn phát triển quan trọng, hướng tới mục tiêu sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Toàn cầu hóa cũng là thời kỳ tình hình chính trị và kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều thuận lợi và thách thức đan xen; các cuộc khủng hoảng chính trị ở một số nước và khu vực trên thế giới tác động mạnh mẽ tới nước ta; đặc biệt dịch bệnh COVID-19 đã làm gia tăng khủng hoảng kinh tế và địa - chính trị, tạo ra cuộc đối đầu thương mại căng thẳng của hai cường quốc Mỹ - Trung. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, truyền thông vừa là cơ hội, vừa là thách thức to lớn đối với xã hội và báo chí, đặt ra nhiều vấn đề nóng, phức tạp đối với hoạt động của người làm báo và công tác lãnh đạo, quản lý báo chí… Bối cảnh trên đặt ra những vấn đề đối với lĩnh vực báo chí, truyền thông để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng, đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới hiện nay.
1. Khuynh hướng thương mại hóa hoạt động báo chí - Một trong những mặt đối lập của công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng qua hoạt động báo chí trong giai đoạn hiện nay
Báo chí là phương tiện, vũ khí cực kỳ quan trọng trên trận địa tư tưởng, văn hóa của Đảng. Tuy vậy, trong quá trình đổi mới, kinh tế thị trường tác động khiến cho báo chí đã có những biểu hiện sai trái, lệch lạc mà điển hình là xu hướng “thương mại hóa”, xa rời tôn chỉ, mục đích phục vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Nhận thức được vấn đề đó, ngày 31/3/1992, Bộ Chính trị đã đưa ra Chỉ thị 08-CT/TW về Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản, phần đánh giá những khuyết điểm nghiêm trọng và kéo dài của báo chí, xuất bản đã nhận định: “...khuynh hướng thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận đơn thuần khá nặng nề dẫn tới đua nhau đăng và phát những tin, bài, hình ảnh giật gân, câu khách...”. Hơn 5 năm sau, ngày 17/10/1997, Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị về Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản ra đời. Chỉ thị cũng nêu: “...Một bộ phận báo chí, xuất bản bị khuynh hướng thương mại hóa và cơ chế thị trường chi phối chạy theo thị hiếu tầm thường, đăng tải những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín, dị đoan hoặc những chuyện vụn vặt...”. Thông báo số 173-TB/TW, Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, trong mục Về thực trạng thông tin ở nước ta nêu: “Xu hướng thương mại hóa, tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin mang tính giật gân, câu khách, chạy theo thị hiếu tầm thường chưa được khắc phục".
Nguyên nhân của khuynh hướng “thương mại hóa”, các chỉ thị và kết luận nêu trên cho rằng, do tác động của cơ chế thị trường, một số cơ quan báo chí chạy theo lợi nhuận, hoặc do trình độ nhận thức chính trị yếu kém. Một số cấp ủy, chính quyền và cơ quan chủ quản chưa nhận thức đầy đủ, đúng mức về vai trò đặc biệt quan trọng của báo chí trong đời sống xã hội, nên chưa xác định rõ trách nhiệm quản lý và chỉ đạo báo chí của cấp mình. Sự phân công cán bộ phụ trách báo chí trong nhiều cơ quan chủ quản chỉ mang tính hình thức và chưa đúng tầm. Trong đó phải kể tới một bộ phận cơ quan chủ quản báo chí, người làm báo còn non kém về chính trị, nghiệp vụ, thiếu trách nhiệm xã hội, không tuân thủ đạo đức nghề nghiệp; sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, địa phương với một số cơ quan báo chí, nhà báo chưa chặt chẽ dẫn tới việc tiếp cận nguồn thông tin của báo chí chưa kịp thời, đầy đủ… Công tác chỉ đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước về báo chí còn chồng chéo, lỏng lẻo, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ; công tác kiểm tra và xử lý những hành động tiêu cực, những vi phạm pháp luật trong hoạt động báo chí chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, có biểu hiện nể nang, né tránh.
Do quá chú trọng cạnh tranh về tốc độ đưa tin và chạy theo lợi nhuận; dẫn đến việc các cơ quan thông tấn, báo chí, trang thông tin điện tử ít coi trọng quy trình duyệt nội dung hoặc thực hiện thiếu nghiêm túc, cá biệt có trường hợp không qua thẩm định, xác minh; dẫn đến một số cơ quan báo chí đưa thông tin sai, thậm chí vi phạm pháp luật. Theo thông tin từ Bộ TT&TT, “tính từ tháng 7 - 2017 đến giữa tháng 10 - 2019, cơ quan này đã tiến hành xử phạt 15 lượt tạp chí điện tử vì lý do chủ yếu là thông tin sai sự thật, thực hiện không đúng tôn chỉ, mục đích ghi trong giấy phép hoạt động báo chí, với tổng số tiền bị xử phạt hành chính gần 500 triệu đồng. Đó là các tạp chí điện tử: Hòa nhập, TTV, Nông thôn Việt, Luật sư Việt Nam, Thương hiệu và Pháp luật, Chất lượng Việt Nam, Môi trường và Cuộc sống, Sở hữu trí tuệ và Sáng tạo, Làng mới... Tháng 11/2017, Tạp chí điện tử Nhà quản lý (thuộc Viện Nghiên cứu và Đào tạo về quản lý) đã bị Bộ TT&TT đình bản 3 tháng vì thông tin sai sự thật gây hậu quả rất nghiêm trọng”1. Vì vậy, thời gian tới cần phải chỉ đạo chặt chẽ từ công tác cán bộ tới công tác thi đua, khen thưởng và xử lý nghiêm những vi phạm trong hoạt động báo chí.
2. Giải quyết mối quan hệ hữu cơ giữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và quyền tự do báo chí, tự do thông tin hoạt động báo chí
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh và mạnh mẽ, các quan điểm, xu hướng mới du nhập vào nước ta là tất yếu, không thể tránh khỏi và quá trình này cũng là “thời cơ” để các thế lực thù địch lợi dụng đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình”. Trong lĩnh vực báo chí, chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” trở thành “vũ khí” để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá ta trên mặt trận tư tưởng. Chính vì vậy, bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí là yêu cầu quan trọng, cấp thiết, là cơ sở vững chắc để tránh “bẫy tự do báo chí” của các thế lực thù địch trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế của nước ta.
Trong thời kỳ hiện nay, tự do ngôn luận, tự do báo chí có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng; được coi là một phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ và có tác động thúc đẩy phát triển. Theo nghĩa thông thường, tự do báo chí được hiểu là thoát ly mọi sự hạn chế, mọi sự cấm đoán đối với báo chí, nhằm phát huy sự sáng tạo nghệ thuật, là một phần quan trọng của quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, ở các thể chế xã hội khác nhau, trong các giai đoạn lịch sử khác nhau thì tự do báo chí cũng được giải thích, được quan niệm, được thể chế hóa, được bảo vệ và thực hiện theo các cách khác nhau. Mức độ tự do được quy định bởi lập trường xã hội, bởi mục tiêu mà con người đặt ra cho mình trong từng giai đoạn.
Đến thế kỷ XX, nhiều tuyên ngôn của các tổ chức lớn như Liên hợp quốc, hiến pháp của nhiều quốc gia, như Mỹ, Anh, Pháp đã quy định rõ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Trong bản “Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789” - tự do báo chí được trình bày như là một trong những quyền cơ bản: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật” (Điều 11). Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại khoản 2, Điều 19 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ”. Khoản 3, Điều 19 cũng quy định: việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội. Ở Anh, tất cả các bài phát biểu miệng hay đăng báo với mục đích làm mất tín nhiệm hoặc kích động chống lại chủ quyền, Chính phủ, Hiến pháp, bất cứ viện nào hoặc hệ thống tòa án, kích động sự bất bình hay sự công phẫn giữa các công dân của Nữ hoàng, sự hận thù giữa các giai cấp của các công dân đó đều bị coi là vi phạm pháp luật. Ở Mỹ, quốc gia luôn tự cho là thực hiện đầy đủ nhất khẩu hiệu tự do báo chí, cũng quy định khi báo chí vu khống, có lời lẽ thô bỉ, có khuynh hướng gây nguy hại cho thể chế dân tộc và quốc gia sẽ bị tòa án tối cao truy tố. Như vậy, tự do báo chí ở Mỹ cũng như ở các quốc gia khác đều được quy định nhằm mục đích ngăn chặn việc lạm dụng tự do báo chí xâm phạm đến quyền tự do của cá nhân khác, chống chính quyền, lật đổ chính quyền... và được bảo đảm bằng các quy định pháp luật.
Ở Việt Nam, nhất là từ sau khi cả nước bước vào công cuộc đổi mới, những điều kiện pháp lý bảo đảm cho tự do báo chí đã từng bước được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Năm 1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí. Mười năm sau, năm 1999, Quốc hội thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1989. Đây là bước hoàn thiện Luật Báo chí cho phù hợp với những yêu cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới. Năm 2016, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XIII thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2017. Hiến pháp năm 2013 có riêng một chương (Chương II) quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó Điều 25 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”; đồng thời cũng nêu: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016 cũng quy định tại Chương II về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Trong đó, Điều 13 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”; đồng thời cũng quy định: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”. Đặc biệt khoản 3, Điều 13 quy định: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Rõ ràng, ở Việt Nam, mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong khuôn khổ pháp luật như ở các quốc gia khác. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là phải giải quyết hòa hợp giữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và quyền tự do báo chí, tự do thông tin hoạt động báo chí.
3. Toàn cầu hóa thông tin và chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch - Thách thức lớn của công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua hoạt động báo chí
Các thế lực thù địch, phản động không ngừng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gia tăng lợi dụng các chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá Đảng, Nhà nước. Chúng triệt để tận dụng báo chí, Internet, mạng xã hội, xây dựng các trang web, đặt máy chủ ở nước ngoài, đăng tải thông tin xuyên tạc sự thật, quan điểm sai trái, thù địch. Hàng nghìn tài liệu, sản phẩm xấu độc, phản động được tuồn vào trong nước hàng ngày tác động xấu đến đạo đức, lối sống, tư tưởng, tâm hồn của một bộ phận nhân dân, nhất là giới trẻ.
Một trong những mưu đồ của các thế lực thù địch trong việc chống phá cách mạng hiện nay là thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch sử dụng nhiều hình thức, phương pháp tinh vi khác nhau, trong đó có việc thông qua báo chí, truyền thông, nhất là mạng xã hội. Trong chống phá cách mạng Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các thế lực thù địch có sự điều chỉnh về thủ đoạn “diễn biến hòa bình” rất nguy hiểm. Từ giữa năm 2009 đến nay, các thế lực thù địch tập trung vào hoạt động tuyên truyền, phá hoại các kỳ Đại hội của Đảng, xuyên tạc Nghị quyết, Văn kiện, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới, kích động người dân vì lý do “bảo vệ chủ quyền biển đảo”, “Đồng Tâm”. “Thủ Thiêm”... chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
Lợi dụng ưu thế của internet để đẩy mạnh xây dựng hàng loạt các trang thông tin, website, blog có nội dung kích động, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Để lừa bịp dư luận, tạo độ tin cậy cho người đọc và thu hút người truy cập. Sau một thời gian, khi đã thu hút một số lượng lớn người truy cập, chúng cài dần các thông tin xấu độc, theo tỷ lệ tăng dần cả về số lượng và mức độ bịa đặt, bóp méo sự thật, làm cho người đọc lúng túng trong việc tiếp nhận thông tin, dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc và hành vi sai trái. Đặc biệt, chúng triệt để sử dụng thủ đoạn dùng mạng xã hội, để nhanh chóng kết nối thành viên, truyền bá tư tưởng phản động, xuyên tạc; tung tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội, nhất là trước các vấn đề nhạy cảm. Điều đáng quan ngại, phần lớn số người sử dụng internet ở nước ta hiện nay và trong thời gian tới là thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, nên những thông tin xấu độc dễ làm cho lớp trẻ nhìn lệch lạc về lịch sử, xã hội và chủ trương, đường lối của Đảng. Điều đó đòi hỏi báo chí chính thống phải cung cấp đầy đủ thông tin, nhanh nhạy để định hướng dư luận xã hội trước khi những thông tin chưa được xác thực tràn lan trên mạng xã hội, internet.
Trong thời gian gần đây, để thích ứng với tình hình quốc tế và Việt Nam, các thế lực thù địch đã tiến hành tác động, hướng lái truyền thông báo chí Việt Nam theo ý đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là mưu đồ “dân chủ hóa” truyền thông, tức là đưa “dân chủ” vào truyền thông của Nhà nước, thúc đẩy sự mở rộng và phát triển của hệ thống truyền thông phi chính thống. Để đạt được mục đích, họ đã sử dụng phương tiện truyền thông hiện đại với một khối lượng lớn các đài phát thanh, loại hình sách, báo chí và các phương tiện thông tin tuyên truyền khác của phương Tây, của bọn phản động người Việt lưu vong để đưa tin, xuyên tạc tình hình Việt Nam. Triệt để sử dụng các trang mạng xã hội để tạo dư luận và kích động đòi quyền “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận”, đòi lập báo chí tư nhân; lái báo chí, truyền thông tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, hoạt động theo ý đồ của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch còn tìm cách tiếp cận một số cơ quan báo chí, xuất bản, nhất là những nhà báo trẻ non kém về chính trị, lại có tư tưởng tự do, phóng túng, hứa hẹn tài trợ, hậu thuẫn vật chất... hòng mua chuộc, “chuyển hoá tư tưởng”. Chúng ra sức vận động, thúc đẩy thành lập báo tư nhân, nhà xuất bản tư nhân, các hội, câu lạc bộ,… làm cơ quan ngôn luận cho “lực lượng dân chủ”; triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội… để “công bố” rộng rãi các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung xấu, phản động. Ngoài ra, chúng ra sức truyền bá quan điểm sai trái, thù địch và khuyến khích nhiều người lên mạng để “trao đổi”, “thu nhận” thông tin; dùng báo mạng làm “nóng” các vấn đề của đất nước; đổi trắng thay đen, tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong công chúng, kích động gây rối, bạo loạn lật đổ. Mắc vào cái bẫy “diễn biến hòa bình”, thời gian qua, cá biệt có lãnh đạo cơ quan báo chí, phóng viên đã bộc lộ tư tưởng báo chí cực đoan, lệnh lạc, quá nhấn mạnh vai trò “phản biện”, lạm dụng “quyền lực xã hội” để đưa các bài viết công kích chế độ mà quên đi bổn phận, trách nhiệm công dân và lương tâm người làm báo.
Đây là những vấn đề lớn đặt ra đòi hỏi các cấp ủy, các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo báo chí cần phải có đánh giá, nhận diện một cách chính xác, khách quan để đề ra các giải pháp thực hiện nhằm quán triệt công tác báo chí và bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng.
1. https://www.qdnd.vn/phong-chong-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/xa-roi-ton-chi-muc-dich-nguy-co-lam-xoi-mon-ban-chat-bao-chi-cach-mang-597480
TS. Hoàng Trung Hải
Học viện Báo chí và Tuyên truyền