CT&PT - Mùa Xuân Nhâm Dần này, Đảng Cộng sản Việt Nam tròn 92 năm xây dựng và trưởng thành (1930 - 2022). 92 năm lịch sử Đảng - một chặng đường đủ dài để Đảng ta làm nên một “pho lịch sử bằng vàng”, tỏa sáng trong tiến trình lịch sử dân tộc, lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, đưa đến những bước ngoặt căn bản làm thay đổi vận mệnh và vị thế đất nước, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân và dân tộc Việt Nam.
1. Cách đây 92 năm, ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự sáng lập và rèn luyện của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, là đội tiên phong của giai cấp công nhân; đồng thời, là đội tiên phong của dân tộc, trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, của toàn thể dân tộc và nhân dân Việt Nam, với chủ nghĩa quốc tế chân chính, phấn đấu đến cùng cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là lý tưởng, mục tiêu cao quý của Đảng và cũng là trọng trách lịch sử mà giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc giao phó cho Đảng. 92 năm qua, trong quá trình hình thành và phát triển của Đảng, với lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đồng bào ta khắp mọi miền đất nước, kể cả đồng bào ở nước ngoài luôn hướng về Đảng, gửi gắm niềm tin yêu, hy vọng và ký thác vào Đảng, mong muốn Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tự hào, sự tin cậy của dân tộc và nhân dân.
Đảng thành công trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, lập nên chế độ chính trị mới
Trong hơn 15 năm từ khi ra đời, từ tháng 02/1930 đến tháng 8/1945, với trí tuệ và bản lĩnh chính trị vững vàng, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Sự ra đời của chế độ chính trị mới ở Việt Nam từ ngày 02/9/1945 với bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khai sinh tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội đã phản ánh bốn điểm cơ bản nhất: 1) Đưa Việt Nam từ một dân tộc nô lệ trở thành một dân tộc tự do, độc lập, làm chủ vận mệnh của mình; 2) Đưa dân tộc Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội; Việt Nam trở thành một lực lượng xung kích của thế kỷ XX, thế kỷ “phi thực dân hóa” trên phạm vi thế giới, góp phần tích cực xóa đi một vết nhơ lớn nhất trong lịch sử loài người là chủ nghĩa thực dân; 3) Đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; 4) Đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên vị trí, vai trò của một Đảng cầm quyền với ý nghĩa là lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị mới và toàn xã hội.
Sự cầm quyền của Đảng không tự nhiên mà có. Nó là kết quả sự hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam yêu nước, của các chiến sĩ cộng sản kiên trung trong suốt chặng đường đầy chông gai hơn 15 năm. Nhân dân, dân tộc Việt Nam đã tin tưởng và đặt lên vai Đảng trọng trách lớn lao: cầm quyền và tiếp tục lãnh đạo, đưa đất nước tiến lên theo mục tiêu được xác định ngay từ Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1.
Từ đây, Đảng cũng như dân tộc Việt Nam thực sự có những biến đổi về chất. Đặt trong quan hệ so sánh suốt cả chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam và lịch sử phát triển văn minh, tiến bộ trên thế giới chúng ta càng thấy rõ vị trí chính trị của Đảng. Đó thực sự là một cuộc biến đổi về chất, xứng đáng với những gì mà Đảng và dân tộc Việt Nam đã cống hiến chứ không phải “ăn may” như một số người nói.
Đảng lãnh đạo toàn dân đứng lên giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc thắng lợi
Trong bài viết này, tác giả muốn đề cập đến ba sự thật lịch sử: 1) Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954); 2) Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975); 3) Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (từ năm 1975 trở đi). Cả ba sự thật lịch sử này đều cho chúng ta thấy rằng:
- Đảng đã khơi dậy khát vọng của cả dân tộc về hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đó cũng là bốn nội dung của quyền dân tộc cơ bản của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới.
- Với sự lãnh đạo đúng đắn của mình, Đảng là một tổ chức chính trị tiêu biểu cho trí tuệ, sức mạnh, danh dự, lương tâm của dân tộc Việt Nam - một dân tộc yêu chuộng hòa bình, yêu độc lập, tự do. Vì vậy, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam do Đảng lãnh đạo đã tìm mọi cách hòa hoãn có nguyên tắc để không xảy ra chiến tranh. Nhưng, khi hòa hoãn bị phá vỡ từ phía những kẻ xâm lược, khi lằn ranh đó bị xâm phạm, nhân dân Việt Nam buộc phải đứng lên cầm vũ khí chiến đấu để giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Điều này đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đêm 19/12/1946: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”2. Thắng lợi của các cuộc chiến đấu trong mấy chục năm qua của nhân dân Việt Nam kể từ năm 1945 dưới chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) hoàn toàn là chính nghĩa để bảo vệ những giá trị tiến bộ không những của dân tộc mình mà còn là của nhân loại tiến bộ. Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), của những năm chống sự xâm lược tại biên giới phía Tây Nam từ bè lũ diệt chủng Khmer Đỏ và biên giới phía Bắc từ thế lực bành trướng hiếu chiến và ngang ngược, đấu tranh bảo vệ chủ quyền từ sau năm 1975 là quá trình thực hiện một cách xuất sắc nhất lời thề trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”3.
- Đảng đã tập hợp được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để chiến thắng tất cả các thế lực xâm lược. Kẻ thù đã buộc nhân dân Việt Nam phải cầm súng. Đó là sự nghiệp của toàn dân, tiếp nhận được thông điệp từ bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam: “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đảng hiểu rõ điều đó và huy động được sức mạnh từ lẽ phải của sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng lãnh đạo toàn dân xây dựng xã hội mới
Xã hội mới được nói đến ở đây là xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986 đến nay) dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo ra thế và lực mới, làm thay đổi căn bản diện mạo đất nước, dân tộc và con người Việt Nam: một đất nước đã được đổi mới về mọi mặt, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành “cuộc chiến đấu khổng lồ”4, “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”5, thực hiện điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi trong Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”6. Nhân dân Việt Nam xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, theo sự chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một xã hội như vậy chính là khát vọng cháy bỏng của toàn dân để phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI Việt Nam trở thành một nước hùng cường, sánh vai với các nước phát triển trên thế giới.
2. Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, Đảng còn có một số hạn chế, bất cập. Đó là:
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong xây dựng một số chủ trương. Đơn cử rõ nhất là trong lãnh đạo tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức (1953 - 1956) ở các tỉnh phía Bắc. Trong các mục tiêu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam mà Đảng đã đề ra nhất quán ngay từ đầu, có mục tiêu “phản phong” (chống phong kiến), giải quyết nội dung “dân chủ” ở nông thôn, phải xóa bỏ giai cấp phong kiến địa chủ, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Đảng đã đúng khi xác định được mục tiêu như vậy. Nhưng, trong cách làm chưa tính đến hoặc tuy có tính đến song tính một cách chưa thấu đáo các đặc điểm cụ thể của xã hội Việt Nam thời kỳ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp và những năm đầu khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Vấn đề này đã được Hội nghị Trung ương 10 khóa XII (năm 1956) nghiêm túc chỉ ra, cho đó là giáo điều.
Thứ hai, sai lầm do chủ quan, duy ý chí. Những biểu hiện về sai lầm do chủ quan, duy ý chí đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) chỉ ra trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật”. Đó là những sai lầm trong cải tạo kinh tế. Trong kinh tế nông nghiệp, Đảng đã đưa nông dân vào các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp một cách ồ ạt trong khi điều kiện thực tế chưa cho phép. Với nhiều biện pháp hành chính, trên thực tế, chúng ta đã coi hợp tác hóa đồng nhất với tập thể hóa. Trong cải tạo công thương nghiệp, tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí thể hiện ở việc muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp…
Thứ ba, trong thời gian qua, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác cán bộ còn yếu kém. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực còn diễn ra phổ biến, de dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VI đã nêu lên tình trạng Đảng ta tuy đông nhưng nói chung không mạnh; Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã nêu lên tình trạng trong Đảng có biểu hiện suy thoái. Tiếp đó, trong các nghị quyết, Trung ương Đảng đã nghiêm khắc chỉ ra rằng, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v..
Đây là điều đặc biệt đáng lưu tâm vì theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cán bộ có vai trò rất quan trọng, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, và theo quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thì “công tác cán bộ là then chốt của then chốt”. Chúng ta đều biết rằng, cán bộ nào quan điểm ấy, cán bộ nào cương lĩnh ấy, cán bộ nào đường lối ấy, cán bộ nào phong trào ấy.
92 năm đã đi qua, kể từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2022). Lịch sử 92 năm đó là pho lịch sử bằng vàng, không ai có thể phủ nhận. Nếu ai đó nói khác đi thì người đó không tôn trọng sự thật lịch sử, hoặc người đó đứng trên quan điểm đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của cách mạng Việt Nam. Nhưng, pho lịch sử bằng vàng đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế mà Đảng ta đã nghiêm khắc nhìn nhận và kiểm điểm. Cách kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tốt nhất là toàn Đảng ra sức phát huy những chất vàng của pho lịch sử đó và quyết tâm khắc phục những tồn tại, hạn chế. Đây cũng chính là đòi hỏi năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam phải được nâng lên một bước mới. Vấn đề xây dựng Đảng là những vấn đề muôn năm cũ, nhưng nó cũng luôn luôn là những vấn đề mới vì cuộc sống vận động không ngừng, do đó Đảng phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để xứng đáng là Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Đó cũng là yêu cầu từ tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khi Đảng tiếp tục kích hoạt, khơi dậy khát vọng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường.
1, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 1; t. 15, tr. 624.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 534, 3.
4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 617.
GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG
Nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh