Tóm tắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng và dân tộc ta, người chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, trước lúc “đi xa” đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc lịch sử. Đó là những lời căn dặn cuối cùng của Người, được các thế hệ người Việt Nam coi là di sản tinh thần vô giá, kết tinh những tư tưởng, tình cảm, đạo đức của một vĩ nhân, trong đó có nội dung quan trọng về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh.
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Di chúc, xây dựng Đảng
1. Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng Đảng. Người coi đây là vấn đề quan trọng hàng đầu để cách mạng thắng lợi và xây dựng đất nước phồn vinh. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh trên thế giới xuất hiện nhiều trào lưu cách mạng và khuynh hướng tư tưởng, cách mạng Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”, Người đã nhận thức rằng: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”1. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Người xác định: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”2.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước ta, nỗi hằng tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm sao xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của Nhân dân. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go, ác liệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Người thẳng thắn nêu ra những khuyết điểm: “Ở cơ quan lãnh đạo các cấp, về lề lối làm việc, về chủ trương và cách lãnh đạo còn có những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng. Ấy là những bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần”3 và Người yêu cầu phải thật thà tự phê bình để sửa chữa, phải cố gắng sửa chữa để tiến bộ.
Tháng 5/1968, khi giở lại tài liệu “Tuyệt đối bí mật”, Người viết thêm mấy điều, trong đó có đoạn: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man (...) Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”4.
Trước khi đặt bút viết bổ sung những dòng trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta nhất định thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, Người cũng khẳng định, nếu đánh Mỹ, thắng Mỹ đòi hỏi nhiều gian khổ, hy sinh, thì việc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh còn gian nan, vất vả gấp bội lần. Theo Người: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”5. Nếu Đảng không được chỉnh đốn thường xuyên, không được xây dựng, củng cố trong sạch, vững mạnh thì không thể lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và hoàn thành được yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra, cách mạng không thể tiến lên được, thậm chí những thành quả đã giành được có nguy cơ bị tiêu tan.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là việc làm thường xuyên, liên tục, bao gồm nhiều việc và phải được tiến hành trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, xây dựng đất nước thời bình, cán bộ, đảng viên dễ chủ quan, duy ý chí, lên mặt “quan cách mạng”, dễ bị sa ngã trước sự quyến rũ bởi quyền lực và tiền bạc, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm giảm uy tín của Đảng, bôi nhọ danh hiệu người đảng viên cộng sản. Điều này đã được Người nhiều lần cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”6.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Việt Nam đứng trước nhiều vấn đề mới, trong đó những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức. Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, cơ bản, thường xuyên và cấp bách. Qua hơn 30 năm đổi mới, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và Nhân dân ta đã đạt được trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là khi công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh càng phải được quan tâm chú trọng; năng lực và vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải được củng cố, tăng cường; đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng càng phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, kiên định mục tiêu, lý tưởng, vững vàng vượt qua mọi thách thức.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém: một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt về lý tưởng, dao động về mục tiêu và con đường đã chọn, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, thậm chí là quan liêu, tham nhũng, làm mất niềm tin của Nhân dân vào Đảng và chế độ, đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Vì thế, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần tập trung là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”7.
2. Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấm nhuần lời căn dặn của Người về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong Di chúc, Người đặt vấn đề đầu tiên là Đảng, nhấn mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó đề cập bốn vấn đề lớn:
Một là, về đoàn kết. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”8. Đây được coi là nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng Đảng. Đoàn kết tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước giàu mạnh. Đoàn kết trong Đảng là bảo đảm đầu tiên và thường xuyên cho sự vững mạnh và sức chiến đấu của Đảng. Cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức góp phần củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương và những nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Đoàn kết thể hiện sự nhất trí trong nhận thức và hành động, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lời nói và việc làm. Có đoàn kết trong Đảng mới đoàn kết được toàn dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đoàn kết phải trên cơ sở thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về chủ trương và đường lối, lập trường và quan điểm, kiên định trong mọi tình huống, không hoang mang, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, một cơ quan, đơn vị, một quốc gia, dân tộc khi mất đoàn kết sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường, là cơ hội tốt cho kẻ xấu, các thế lực thù địch lợi dụng, phân hóa nội bộ, tấn công làm tan rã tổ chức, làm cho Đảng rệu rã, mất sức chiến đấu, sự nghiệp cách mạng dễ bị thất bại. Bài học về đoàn kết là bài học cực kỳ sâu sắc mà trong Di chúc, Người đã phân tích rõ: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”9.
Hai là, về thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình. Theo Người: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”10. Nếu đoàn kết thống nhất trong Đảng là nền tảng, là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên sức mạnh của Đảng thì cách tốt nhất để phát triển sự đoàn kết thống nhất ấy là phải thực hành dân chủ rộng rãi, tự phê bình và phê bình thường xuyên trong Đảng, trong việc xây dựng, ban hành các chỉ thị, nghị quyết, chính sách. Trong sinh hoạt của Đảng phải bảo đảm dân chủ, công khai, cởi mở, bình đẳng giữa cấp trên và cấp dưới, dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kết hợp hài hòa giữa dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Trong thực hành dân chủ, cần khắc phục tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, độc đoán, dân chủ hình thức; đồng thời, ngăn chặn tình trạng lợi dụng dân chủ nhằm gây rối, thái độ vô tổ chức, vô kỷ luật, tự do vô chính phủ. Tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng là yếu tố quyết định giữ gìn uy tín của Đảng, giúp cho cán bộ, đảng viên sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là để đi đến đoàn kết thống nhất dựa trên cơ sở thực hiện dân chủ rộng rãi, mở rộng dân chủ nội bộ. Các tổ chức đảng và đảng viên phải nghiêm túc tự phê bình và phê bình, có thái độ khách quan, trung thực, chân thành, thẳng thắn, có lý có tình, có trách nhiệm giữa những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục đích và phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đồng thời, ngăn chặn tình trạng lợi dụng phê bình để đả kích, bôi nhọ, mạt sát đồng chí, đồng nghiệp, gây mất đoàn kết nội bộ. Muốn lãnh đạo được quần chúng, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nghiêm túc tự phê bình, chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của cấp dưới, của đồng chí, đồng nghiệp; đồng thời tích cực vận động cấp dưới và quần chúng tham gia phê bình tổ chức đảng và đảng viên. Một đảng dám mạnh dạn tự phê bình và phê bình mới có khả năng tập hợp, đoàn kết được đông đảo quần chúng dưới ngọn cờ của Đảng tiến hành thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Ba là, về đạo đức cách mạng. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”11. Chỉ trong mấy dòng mà Người nhắc đi nhắc lại các từ “thật”, “thật sự”. Điều này cho thấy sự trăn trở của Người đối với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, sự quan tâm đến vận mệnh của Đảng và tương lai của đất nước. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo đức mới, không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích của Đảng, dân tộc và nhân loại; đề cập chung cho mọi tầng lớp, mọi đối tượng, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó bao gồm cả xây và chống. “Xây” là rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, “chống” là chống thói hư tật xấu, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Người, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước giàu mạnh là “công việc khổng lồ”, là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, gian khổ, do đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải sẵn sàng hy sinh, phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đạo đức cách mạng là phẩm chất đầu tiên, cơ bản, nền tảng của người cán bộ, đảng viên: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”12. Trong nhiều tác phẩm, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “nói thì phải làm”, phải “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, v.v.. Trong Di chúc, Người một lần nữa nhắc nhở và nhấn mạnh phải “thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” với mong muốn cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu nhiều hơn nữa, cao hơn nữa. Theo Người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu đều thuộc phạm trù đạo đức cách mạng. Đảng ta là một đảng cầm quyền, nên phải thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc. Đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định, mẫu mực về đạo đức và lối sống, có tầm cao trí tuệ để lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. “Giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, “xứng đáng là người lãnh đạo” và “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” là ba yếu tố được đặt trong một chỉnh thể thống nhất, biện chứng, gắn bó, bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho sự phát triển vững mạnh và sức chiến đấu của Đảng, để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thành công.
Bốn là, về giữ gìn mối liên hệ và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Thấm nhuần quan điểm “nước lấy dân làm gốc”, “dân là chủ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm thấy rõ tầm quan trọng của mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và năng lực sáng tạo của Nhân dân trong các phong trào cách mạng: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”, “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”13. Đảng gắn bó mật thiết với dân mới có sức mạnh, mới thực hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng. Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với đảng cầm quyền là tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng, do đó phải giữ chặt mối liên hệ với dân chúng, luôn lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng, nhờ đó mà Đảng thắng lợi; nếu cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, nhất định thất bại. Người cũng nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng nhân dân, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phải là công bộc của dân, vì Nhân dân mà phục vụ. Trong Di chúc, Người đánh giá cao vai trò của Nhân dân: “NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”14.
Những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc là nội dung rất cơ bản để tiến hành xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay khi Đảng ta tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hoàn thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, xứng đáng với mong ước cuối cùng của Người ghi trong Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”15.
1, 2, 3, 12, 13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289; t. 3, tr. 4; t. 7, tr. 33; t. 5, tr. 292-293; t. 10, tr. 453.
4, 5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616, 617, 672.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 56-57.
8, 10, 11, 14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
9, 15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 621-622, 624.
PGS.TS. Lê Văn Yên