Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần dân tộc vào việc giáo dục sinh viên hiện nay*

CT&PT - Trên cơ sở làm rõ quan điểm và giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần dân tộc, bài viết tập trung phân tích nội dung và đề xuất một số giải pháp vận dụng sáng tạo tư tưởng đó vào quá trình giáo dục sinh viên Việt Nam hiện nay nhằm đào tạo một thế hệ sinh viên giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái; có ý chí, nghị lực vươn lên trong học tập và cuộc sống, góp phần xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”1. Vì vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần dân tộc vào việc giáo dục sinh viên nhằm xây dựng đội ngũ trí thức tương lai vừa hồng, vừa chuyên, kế tục các thế hệ cha anh trong sự nghiệp cách mạng mới là yêu cầu cơ bản, lâu dài và cấp bách để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

1. Quan điểm và giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần dân tộc
Một là, tinh thần yêu nước - động lực lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên tình yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và cuộc sống của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng: “nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng”2. Lòng yêu nước, tình cảm gắn bó máu thịt và trách nhiệm của người dân Việt Nam đã đúc kết thành truyền thống yêu nước và được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước. Chính tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước là động lực vĩ đại giúp nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc trước kẻ thù xâm lược. Nguồn giá trị văn hóa tư tưởng truyền thống, ý chí độc lập và khát vọng tự do là nền tảng văn hóa tinh thần, là động lực vĩ đại của sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam và cũng là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Tinh thần bất khuất, lòng trung thành với Tổ quốc dù khó khăn, gian khổ, dù phải hy sinh nhưng vẫn một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là cội nguồn tạo nên sức mạnh giúp nhân dân Việt Nam chiến thắng kẻ thù. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”3. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc, tinh thần dân tộc được xác định trên lập trường của giai cấp công nhân, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa dân tộc truyền thống với chủ nghĩa quốc tế cách mạng vô sản trong sáng. Đó là “chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa cộng sản”. Đây là sự đóng góp lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng Mác - Lênin và phong trào cách mạng thế giới4.

Hai là, tinh thần đoàn kết, nhân văn, nhân ái. 
Đoàn kết là truyền thống quý báu, là sự kết tinh các giá trị văn hóa thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, được hình thành qua quá trình dựng nước và giữ nước. Nhận thức rõ vai trò của đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, khi một dân tộc đã đoàn kết nhất trí đấu tranh giành độc lập tự do thì nhất định thắng. Người viết: “… Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”5. Theo Hồ Chí Minh, dù ở bất kỳ đâu hay làm bất cứ việc gì nếu biết đoàn kết, chung sức thì khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng. Từ đó, Người kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết, không sợ hy sinh, gian khổ, quyết tâm giành và giữ vữngchủ quyền, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Trong Thư gửi đồng bào cả nước, Hồ Chí Minh viết: “Đường lối đấu tranh của chúng ta hiện nay là: toàn dân từ Nam đến Bắc đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… chúng ta đoàn kết rộng rãi tất cả những người Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, yêu thống nhất trong cả nước và ở nước ngoài. Với lực lượng đoàn kết ấy, chúng ta hoạt động không ngừng cho Nam Bắc gần gũi nhau, chúng ta kiên quyết đấu tranh củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”6. Chủ trương trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của đất nước, đáp ứng nguyện vọng thiêng liêng của dân tộc và những người dân Việt Nam yêu nước.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chủ trương đoàn kết với tất cả các dân tộc trên toàn thế giới, những người yêu chuộng hòa bình, tiến bộ và ủng hộ cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: “Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”7. Có thể nói, thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết mãi mãi ghi đậm trong lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam và trở thành bài học to lớn về đại đoàn kết, đồng thời là cơ sở để huy động sức mạnh toàn dân tộc, là mục tiêu cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc. 
Cùng với đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng truyền thống nhân văn, nhân ái của dân tộc. Lòng nhân đạo là giá trị truyền thống quý báu của dân tộc được truyền từ đời này qua đời khác, thể hiện sự yêu thương, quý trọng và bảo vệ con người cùng nhau xây dựng và giữ gìn đất nước. Cùng với truyền thống anh hùng, bất khuất, thông minh, cần cù, khiêm tốn thì lòng nhân đạo còn là đức tính cao quý gắn kết con người gần với nhau hơn và tạo nên mối quan hệ xã hội bền vững. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa”8. Theo cách nhìn truyền thống văn hoá Việt Nam, giá trị con người được thể hiện ở lòng nhân nghĩa, qua đạo đức của bậc “ưu quốc, ái dân”, biết chăm lo vun đắp cho vận mệnh chung của đất nước, của cộng đồng, của dân tộc. Điều đó thể hiện đạo lý của dân tộc, biểu dương mối quan hệ gắn bó tốt đẹp, tình làng nghĩa xóm, trong lối sống lúc “tắt lửa tối đèn có nhau” chia ngọt sẻ bùi. Đây là nét đẹp nhân văn và là cốt cách văn hóa của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, trong Di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”9

Ba là, tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc.
Dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước tạo nên một nền văn hóa đặc sắc với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý. Kế thừa truyền thống tự lực, tự cường đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm của ông cha trong lịch sử và bằng kinh nghiệm hoạt động thực tiễn cách mạng phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”10
Lòng tự hào, tự tôn dân tộc luôn là nền tảng tinh thần để mỗi người Việt Nam ý thức sâu sắc trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc mình, đồng thời  giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Người từng nhấn mạnh: Giở sử đất nước ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn11. Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ ba của Hội Nhà báo Việt Nam, Người căn dặn: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”12. Do đó, Người khẳng định: “càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin bao nhiêu thì càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy nhiêu”13. Bản thân Người là hiện thân của tinh thần tự lực, tự cường và tự tôn dân tộc, Người luôn coi trọng việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam, khẳng định cốt cách dân tộc trong hành trình giao lưu, tiếp biến văn hóa thế giới để làm giàu cho chính bản thân mình, dân tộc mình. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc kết hợp giữa chủ nghĩa quốc tế trong sáng với lòng tự hào dân tộc, qua đó nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần dân tộc là hệ thống những quan điểm của Người về giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc như: lòng yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc; tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc; tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái; lòng trung thực, nhân nghĩa, ham điều thiện, yêu sự công bằng… Đó là hệ giá trị cốt lõi của dân tộc để hình thành nên “cốt cách dân tộc” Việt Nam, là động lực tư tưởng cho cuộc đấu tranh sinh tồn và phát triển của dân tộc.

2. Nội dung giáo dục sinh viên về tinh thần dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh 
Một là, giáo dục sinh viên tinh thần yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, yêu nước là phải đấu tranh chống những kẻ xâm lược, chống chia cắt Tổ quốc mình để cho Tổ quốc được thống nhất, độc lập14; “cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống lại”15. Hiện nay, xu thế chung của thế giới là chuyển từ đối đầu sang đối thoại, là hòa bình, hợp tác và phát triển, song các thế lực thù địch vẫn đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, kích động nhân dân các dân tộc ít người, để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tiến tới phá vỡ sự ổn định chính trị và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, cần giúp sinh viên nhận thức sâu sắc rằng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề mang tính nguyên tắc, không thể nhân nhượng, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 
Lòng yêu nước hôm nay được thể hiện trước hết là ở ý thức giữ gìn sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc. Để làm được điều đó, sinh viên cần tạo dựng cho mình niềm tin vững chắc, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu; dám đối mặt với mọi khó khăn, thử thách để khẳng định bản thân, để biến ước mơ, hoài bão của tuổi trẻ thành hiện thực; không ngừng học tập, chiếm lĩnh những đỉnh cao mới của tri thức nhân loại, năng động sáng tạo áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ vào thực tiễn công tác, góp phần làm giàu cho bản thân mình và cho đất nước. Song song với đó, phải rèn luyện bản lĩnh chính trị, tư tưởng, đạo đức, nhân cách; kiên định đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, biết “miễn dịch”, “đề kháng” trước những cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực ngoài xã hội, giữ vững bản lĩnh chính trị, lý tưởng cao đẹp của người thanh niên Việt Nam trong thời đại mới, xứng đáng là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giáo dục sinh viên lòng tự hào dân tộc là bồi dưỡng tình cảm trân trọng, kiêu hãnh về đất nước Việt Nam tươi đẹp, non sông hùng vĩ; tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang của đất nước, của dân tộc anh hùng, bất khuất đã nhiều lần chiến thắng chống giặc ngoại xâm hùng mạnh; tự hào về các anh hùng dân tộc trong lịch sử và trong giai đoạn hiện nay; tự hào về nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc với những giá trị tinh thần bền vững, sức mạnh trường tồn của dân tộc; tự hào về những trí thức, nhà khoa học Việt Nam được vinh danh trên trường quốc tế... Giáo dục sinh viên lòng tự tôn dân tộc tức là giúp họ biết trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, hiểu biết sâu sắc về những giá trị văn hóa của dân tộc mình, đồng thời có  bản lĩnh phê phán, kiên quyết đấu tranh trước những quan điểm sai trái, xuyên tạc lịch sử dân tộc và phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng, Nhân dân Việt Nam và Dân tộc Việt Nam đã lựa chọn. 

Hai là, giáo dục sinh viên tinh thần đoàn kết, lòng nhân văn, nhân ái.
Kế thừa truyền thống dân tộc, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng. Vì thế, cần giáo dục sinh viên ý thức đoàn kết, biết hợp tác, giúp đỡ nhau trong học tập và công tác, thực hiện đúng lời dạy của Người: “đoàn kết chặt chẽ, phấn đấu anh dũng, vượt mọi khó khăn, thi đua giúp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước nhà tốt đẹp - một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”15. Thường xuyên tổ chức các hoạt động phù hợp với đặc điểm sinh viên, đáp ứng nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của đại đa số đoàn viên, thanh niên như: Sinh viên tình nguyện hè, Tiếp sức mùa thi, Ngày thứ bảy tình nguyện, Ngày chủ nhật xanh, Hiến máu nhân đạo... Khi sinh viên tham gia các hoạt động vì cộng đồng là tự nguyện góp thời gian và kỹ năng của mình để giúp đỡ cộng đồng dân tộc, điều này thể hiện ý thức trách nhiệm của sinh viên với cộng đồng. Các hoạt động này sẽ góp phần giáo dục cho sinh viên tính nhân văn, nhân đạo trong cuộc sống, làm cho sinh viên thấy được trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, thấy được vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. 
Các cơ sở giáo dục đại học tích cực đẩy mạnh tổ chức các hoạt động giao lưu, trao đổi giữa sinh viên các trường trong nước với sinh viên các trường trong khu vực và trên thế giới; cử những sinh viên tiêu biểu đi học hỏi kinh nghiệm học tập, nghiên cứu ở nước ngoài; hỗ trợ sinh viên tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động của Liên đoàn Thanh niên Dân chủ Thế giới, phong trào thanh niên tiến bộ thế giới; đẩy mạnh sự tham gia các cơ chế, hoạt động đa phương nhằm tích cực tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế đối với công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi trong nước, góp phần nâng cao vị thế quốc tế và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, đồng thời khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng cống hiến của thanh niên, sinh viên Việt Nam trong thời đại mới. 
Ba là, giáo dục sinh viên tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường để góp phần xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc. 
Giáo dục sinh viên tinh thần tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện toàn diện cả về đạo đức, trí tuệ, thể chất và tinh thần theo bốn trụ cột giáo dục: “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Qua đó, sinh viên hình thành được bản lĩnh, tạo lập được vị trí, chỗ đứng vững vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá nhân mình trong cuộc đời; Từ đó củng cố lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự chủ, tự lập, tự cường, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kiên quyết, kiên trì đấu tranh trước mọi hành vi xâm phạm lợi ích của quốc gia, dân tộc. 
Sinh viên là lực lượng quan trọng của xã hội không những có vai trò tham gia thực hiện tốt các nhiệm vụ hiện tại của đất nước, mà điều quan trọng hơn là lớp người trực tiếp gánh vác trọng trách xây dựng, kiến tạo một xã hội tương lai của dân tộc. Do đó, họ cần phát huy tính linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong học tập, công tác và thực hiện nhiệm vụ; tiên phong, gương mẫu trong rèn luyện và thực hành đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm xã hội; đặc biệt phải có quyết tâm lớn mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chỉ cần chúng ta có đầy đủ ý thức làm chủ, tinh thần tập thể, kỷ luật và ra sức học tập, nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật, có tinh thần sáng tạo, tìm tòi cái mới, học tập cái mới, ủng hộ cái mới, thực hiện cái mới thì việc gì chúng ta cũng làm được”17. Vì thế, các cơ sở giáo dục đại học bên cạnh việc trang bị cho sinh viên kiến thức chuyên môn, còn cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng năng lực hoạt động thực tiễn, có khả năng dự báo các xu hướng phát triển của xã hội; biết sử dụng có hiệu quả máy vi tính, ứng dụng được những thành tựu của công nghệ thông tin vào quá trình học tập, thành thạo ngoại ngữ để đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế. 
3. Một số giải pháp vận dụng hiệu quả, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần dân tộc vào việc giáo dục sinh viên trong kỷ nguyên mới
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc giáo dục tinh thần dân tộc cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt hiệu quả thiết thực, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người theo những phương pháp khoa học, phù hợp với đặc điểm của sinh viên trong kỷ nguyên số và với yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay. Quá trình vận dụng phải được thực hiện bằng các phương pháp khoa học, toàn diện, kết hợp giữa lý luận - thực tiễn, giữa truyền thống - hiện đại, giữa giáo dục - tự giáo dục.
Thứ nhất, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị, coi đây là kênh chủ đạo trong giáo dục tinh thần dân tộc.
Các môn lý luận chính trị có chức năng đặc thù trong việc hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng và tinh thần dân tộc cho sinh viên. Để thực hiện tốt chức năng đó, cần tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm, phát huy tư duy phản biện, năng lực tự nghiên cứu, khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần thể hiện vai trò chủ đạo trong việc dẫn dắt, truyền cảm hứng, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân và khát vọng cống hiến thông qua việc minh họa bằng những tấm gương tiêu biểu, sự kiện lịch sử, thành tựu đổi mới của đất nước; tổ chức cho sinh viên thảo luận về các nội dung có liên quan đến vai trò, biểu hiện cụ thể của tinh thần dân tộc nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của sinh viên, giúp sinh viên biết liên hệ, vận dụng với thực tiễn cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt”18. Đồng thời, ứng dụng công nghệ số và các nền tảng dạy học hiện đại giúp bài giảng trở nên sinh động, tương tác cao, góp phần lan tỏa giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đến với sinh viên một cách hiệu quả và hấp dẫn hơn.
Thứ hai, phát huy vai trò của hoạt động ngoại khóa và phong trào sinh viên trong giáo dục tinh thần dân tộc. 
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là phương thức giáo dục quan trọng, giúp sinh viên củng cố, mở rộng và vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. Đây cũng là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp, mới học tập, tu dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo được. Trong mọi hoạt động cách mạng, chúng ta đều có thể và đều phải học tập, tự cải tạo”19
Để hoạt động này có hiệu quả, các cơ sở giáo dục đại học cần thiết kế và tổ chức hệ thống hoạt động ngoại khóa có chiều sâu, gắn với các giá trị cốt lõi của tinh thần dân tộc như: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, nhân ái, nghĩa tình, trách nhiệm với cộng đồng. Cụ thể: (1) Tăng cường các hoạt động ngoại khóa cho sinh viên như: tham quan các di tích lịch sử văn hóa, các bảo tàng dân tộc, bảo tàng lịch sử, bảo tàng quân đội gắn với từng nội dung giáo dục tinh thần dân tộc. Các hoạt động này phải được tiến hành thường xuyên, là yêu cầu có tính chất bắt buộc đối với sinh viên. Sau mỗi buổi ngoại khóa cần yêu cầu sinh viên viết các bài thu hoạch và những cảm nhận sau buổi học, rút ra bài học trong tương lai của mình; (2) Tổ chức các phong trào thi đua gắn với các ngày lễ lớn của đất nước như: Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2); Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3); Kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5)... Mục đích của các cuộc thi này là nhằm giáo dục truyền thống lịch sử, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào và ý chí tự lực, tự cường dân tộc; (3) Tổ chức cho sinh viên tham gia các hoạt động thực tế vì cộng đồng gắn với truyền thống đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn; chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng và các hoạt động nhân đạo khác. Khuyến khích sinh viên tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương như: tiếp sức mùa thi, xung kích giữ gìn trật tự an toàn giao thông, hiến máu nhân đạo, tình nguyện vì môi trường... Tham gia các hoạt động này không chỉ nâng cao nhận thức của sinh viên về ý thức trách nhiệm của mình với cộng đồng và dân tộc mà còn từng bước giúp sinh viên nuôi dưỡng niềm tự hào, tự tôn dân tộc, hình thành tình cảm, ý chí và nghị lực vươn lên của sinh viên trong xã hội hiện nay; (4) Tổ chức các diễn đàn về lịch sử, văn hóa dân tộc, về đất nước và con người Việt Nam. Thông qua các câu chuyện về lịch sử, tình yêu đối với đất nước và con người Việt Nam, về ý chí, nghị lực, nhân cách sẽ lan tỏa tới tình cảm nhận thức của sinh viên, hình thành động cơ, ý chí phấn đấu trong sinh viên. Mỗi diễn đàn phải có một chủ đề nhất định phù hợp với các ngày lễ kỷ niệm, với đặc điểm của sinh viên, các giai đoạn trong quá trình học tập. Các nội dung của tinh thần dân tộc phải được cụ thể hóa thành các tiêu chí, nội dung cụ thể thiết thực cho cuộc sống của sinh viên. 
Thứ ba, giáo dục tinh thần dân tộc thông qua phương pháp nêu gương. 
Khi vận dụng phương pháp nêu gương để giáo dục tinh thần dân tộc cho sinh viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung giáo dục mà lựa chọn những tấm gương thật điển hình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”20. Trong giáo dục, nêu gương không chỉ là phương pháp mà còn là nguyên tắc đạo đức. Để phương pháp này phát huy hiệu quả, trước hết đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý phải là những tấm gương sáng về đạo đức, tác phong, lối sống, khát vọng cống hiến và tình thần trách nhiệm. Đồng thời, cần phát hiện, biểu dương và nhân rộng những tấm gương của các sinh viên ưu tú, các cựu sinh viên tiêu biểu có đóng góp cho xã hội, cho quê hương, đất nước. Thông qua việc giao lưu, tọa đàm, đối thoại với những tấm gương ấy, sinh viên được truyền cảm hứng, được khơi dậy niềm tự hào, ý chí phấn đấu, hình thành tình cảm yêu nước và trách nhiệm đối với cộng đồng. 
Thứ tư, kết hợp gia đình, nhà trường và xã hội trong quá trình giáo dục tinh thần dân tộc cho sinh viên.
Giáo dục tinh thần dân tộc cho sinh viên là một quá trình lâu dài được diễn ra trong nhiều môi trường khác nhau, vì vậy đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa ba lực lượng: nhà trường, gia đình và xã hội. Mỗi môi trường giáo dục có vai trò, vị trí và tác động đặc thù, song đều hướng tới mục tiêu hình thành ở sinh viên ý thức tự tôn dân tộc, lòng yêu nước và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với sinh viên. Những giá trị truyền thống, lối sống, nếp nghĩ, cách ứng xử trong gia đình góp phần hình thành nền tảng đạo đức, nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc trong mỗi cá nhân. Do vậy, việc tăng cường trách nhiệm giáo dục của gia đình, tạo không gian văn hóa tích cực, khích lệ con em gìn giữ và phát huy giá trị dân tộc là yêu cầu quan trọng. Xã hội là môi trường giáo dục rộng lớn, có tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của sinh viên thông qua thực tiễn đời sống, lao động, học tập và giao tiếp. Dư luận xã hội, các phong trào thi đua yêu nước, hoạt động tình nguyện, văn hóa - nghệ thuật, truyền thông xã hội… đều góp phần định hướng, điều chỉnh hành vi, hình thành tình cảm và niềm tin về giá trị dân tộc cho sinh viên. 
Nhà trường giữ vai trò trung tâm, có chức năng tổ chức, điều phối và định hướng hoạt động Để phát huy vai trò đó, các cơ sở giáo dục đại học cần: (1) Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng môi trường giáo dục hiện đại, thân thiện; (2) Xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên, đặc biệt là giảng viên giảng dạy các môn Lý luận chính trị chính quy, chuyên nghiệp, có phẩm chất, năng lực, tình yêu nghề; (3) Thường xuyên rà soát, cập nhật, đổi mới nội dung, chương trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị; (4) Tổ chức hiệu quả “Tuần sinh hoạt công dân - sinh viên”, các diễn đàn, câu lạc bộ học thuật, hoạt động ngoại khóa, phong trào Đoàn - Hội… nhằm giúp sinh viên rèn luyện, bồi dưỡng tinh thần dân tộc. 
Thứ năm, nâng cao ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của sinh viên.
Tự giáo dục là yếu tố nội sinh, giữ vai trò quyết định trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên. Mọi sự tác động của quá trình giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội chỉ thực sự phát huy tác dụng khi được sinh viên chủ động tiếp nhận, chuyển hóa thành động lực của quá trình tự giáo dục. Trong giáo dục tinh thần dân tộc, ý thức tự giáo dục giúp sinh viên không chỉ hiểu rõ giá trị truyền thống của dân tộc mà còn biết tự giác rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân.
Để nâng cao ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện, sinh viên cần phải có động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn đối với việc học tập, tu dưỡng và cống hiến. Mỗi sinh viên phải chủ động xây dựng nội dung, phương pháp, kế hoạch cụ thể để học tập, nâng cao trình độ lý luận, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn; bồi đắp ý chí tự lực, tự cường, tự tin; có lòng khao khát vươn tới lý tưởng cao đẹp, chân lý khoa học; có tinh thần cầu thị, biết lắng nghe, ham hiểu biết và học hỏi, khám phá tri thức khoa học, gắn tri thức khoa học trừu tượng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách hiệu quả nhất. Tự giáo dục giúp sinh viên hình thành bản lĩnh chính trị, nhân cách, trách nhiệm công dân và năng lực cống hiến trong kỷ nguyên mới.
Trong bối cảnh ngày nay, bên cạnh những thuận lợi vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức trong hành trình để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc. Vì vậy, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần dân tộc trong giáo dục sinh viên không dừng lại ở việc truyền đạt tri thức hay khơi dậy ở họ lòng yêu nước, mà hướng tới hình thành ở sinh viên một hệ giá trị mới của con người Việt Nam hiện đại: yêu nước - nhân ái - trung thực - sáng tạo - trách nhiệm. Đó là những giá trị nền tảng để xây dựng thế hệ trí thức trẻ có bản lĩnh, có tri thức, có năng lực làm chủ khoa học - công nghệ, có khát vọng phụng sự Tổ quốc, góp phần đưa đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.


* Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, mã số B2024-MDA-01, do Trường Đại học Mỏ - Địa chất chủ trì.

1, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 15, tr. 612, 668.
2, 7, 11, 20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.98, 487, 97, 284.
3, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 38, 445.
4. Lê Khả Phiêu: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tr.13.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5,  tr.179.
6, 16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10,  tr.359, 437.
9. Hồ Chí Minh: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, tr. 27.
12, 17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 465, 70.
13. Lữ Huy Nguyên: Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995, tr.420.
14. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 347.
15, 18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9,  tr. 178, 266.
19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.602.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin