Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam

CT&PT - Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đặc biệt, “Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới”1. Để thực hiện mục tiêu quan trọng của giai cấp nông dân, cần phát huy vai trò của hệ thống chính trị từ cấp cơ sở. Trên cơ sở phân tích thực trạng xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam trong thời gian qua, bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. 

1. Thực trạng xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay

Những kết quả đạt được

Một là, trình độ học vấn, tay nghề của người nông dân ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo ở khu vực nông thôn tăng từ 8,5% năm 2010 lên 16,3% năm 2020. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đã qua đào tạo tăng từ 4,3% năm 2015 lên 4,6% năm 20203. Người nông dân đã từng bước áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước; nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp như: mô hình trồng rau sạch, mô hình trồng cây ăn quả, nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản… cho năng suất cao được nhân rộng, góp phần gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người dân.

Hai là, số lượng, cơ cấu giai cấp nông dân ở nước ta hiện nay có sự biến đổi tích cực. Hiện nay, dân số sống ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 65%, trong đó chủ yếu là nông dân. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm giảm tỷ lệ nông dân trong tổng số dân cũng như trong cơ cấu lao động. Đặc biệt, từ năm 2015 đến nay, do sự chuyển dịch cơ cấu lao động mạnh mẽ, tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm khoảng 9%. Nếu năm 2015 cơ cấu lao động khu vực 1 chiếm tới 45,73%, khu vực 2 chiếm 24,19%, khu vực 3 chiếm 30,08%, thì đến năm 2020, tỷ trọng lao động trong khu vực 1 là 34,78%, khu vực 2 là 32,65%, khu vực 3 là 32,57%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong những năm sau giảm nhanh (khoảng 3%/năm) so với giai đoạn 2005 - 2010 (khoảng 1 - 1,5%)4. Điều này phù hợp với xu thế tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.

Ba là, cùng với sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người nông dân cũng tham gia vào các thành phần kinh tế khác nhau: kinh tế tập thể với hợp tác xã, tập đoàn sản xuất; kinh tế tư nhân với trang trại và kinh tế hộ gia đình... Xu hướng phân nhánh đó tất yếu sẽ kéo theo sự khác biệt về phương thức lao động, vai trò của con người trong quá trình sản xuất, mức độ hưởng thụ và cơ hội phát triển về mọi mặt. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân tầng trong nội bộ giai cấp nông dân. Do đó, hình ảnh người nông dân hiện nay đã trở nên đa dạng, không còn “thuần nhất” như trước.

Bốn là, việc triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã giúp đời sống văn hóa của người nông dân ngày càng phong phú, văn minh, hiện đại. Các lễ hội quy mô lớn, nhỏ trong phạm vi làng, xã có sự chuyển biến rõ rệt. Những giá trị truyền thống tốt đẹp được phát huy, những giá trị mới trong lối sống, quan hệ ứng xử (giữa các thành viên trong gia đình, làng, xóm…) ngày càng trở nên phổ biến.

Năm là, ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường, cải tạo cảnh quan nông thôn của người nông dân ngày càng được nâng cao, góp phần xây dựng môi trường xanh - sạch - đẹp, tạo nên diện mạo mới cho nông thôn.

Một số hạn chế, bất cập

Một là, về cơ bản, đa số nông dân là những người có thu nhập thấp, một bộ phận không có tích lũy, trong đó chủ yếu là những người sống ở vùng sâu, vùng xa. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó chủ yếu là do sự hạn chế về thực lực kinh tế, địa vị chính trị, trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật. Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ, song vai trò của giai cấp nông dân ở một số nơi có phần bị mờ nhạt. Tại không ít nơi, nông dân bỏ ruộng, bỏ quê hương đến các đô thị, khu công nghiệp tìm việc làm, dẫn đến tình trạng di cư tự do, gây nên những bất ổn trong xã hội. Khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa nông thôn, chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm hộ giàu nhất và 20% nhóm hộ nghèo nhất ở nông thôn tăng mạnh (từ 7,5 lần năm 2010 lên 8,6 lần năm 2018).

Hai là, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, trình độ của giai cấp nông dân nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của nền nông nghiệp công nghệ cao. Tình trạng dư thừa lao động nông nghiệp, bất bình đẳng giữa nông dân có trình độ công nghệ thấp và nông dân có trình độ công nghệ cao có xu hướng trở nên phổ biến5. Nhận thức của một bộ phận không nhỏ giai cấp nông dân trong việc nâng cao trình độ, tay nghề còn hạn chế, dẫn đến sự học hỏi mang tính đối phó, chưa chủ động, tích cực. Chất lượng đào tạo nghề chưa đạt mục tiêu nâng cao năng suất xã hội, chưa góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động sang các ngành, lĩnh vực khác6. Tính riêng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo là 12,57 triệu người, chiếm 89,97% tổng số lao động.

Ba là, năng lực của giai cấp nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn vẫn còn một số mặt hạn chế. Phần lớn nông dân sản xuất theo kinh nghiệm, phong trào, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, dựa trên kinh tế hộ gia đình nên năng suất lao động xã hội thấp; chưa có đủ năng lực, chưa có thói quen tìm hiểu nhu cầu của thị trường để lựa chọn sản phẩm, mặt hàng, công nghệ phù hợp. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, ngành, nghề phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của nông dân, nông thôn. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong giai đoạn 2010 - 2017, ngành nông, lâm, thủy sản chiếm 2,5% tổng quy mô tuyển sinh. Lao động trong ngành nông nghiệp chiếm hơn 40% lao động toàn xã hội, song chỉ có 7,93% đã qua đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, trong đó 3,58% đã qua đào tạo nhưng không có văn bằng, chứng chỉ, 1,87% có trình độ sơ cấp nghề, 1,24% trung cấp và trung cấp nghề, 0,69% tốt nghiệp cao đẳng và cao đẳng nghề, 0,46% tốt nghiệp đại học trở lên7

Bốn là, trong quan hệ sản xuất, người nông dân đứng ở vị trí yếu thế, không được đưa ra quyết định trong chuỗi sản xuất và quản lý xã hội nông thôn. Bên cạnh đó, thách thức trong sản xuất nông nghiệp ngày càng gay gắt: rủi ro do lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh; giá các loại vật tư đầu vào tăng nhanh hơn giá nông sản đã làm giảm thu nhập của người nông dân, khiến nhiều nông dân không muốn làm nông nghiệp, bỏ hoang ruộng đất.

2. Một số giải pháp phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm các thiết chế chính trị như: tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tổ chức và hoạt động trên địa bàn các xã, phường, thị trấn dựa trên những nguyên tắc nhất định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; có “vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư”8. Việc phát huy dân chủ ở khu vực nông thôn (thôn, xóm, bản, buôn, làng...) gắn với công tác xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, cụ thể là cấp xã - nơi chính quyền nằm ngay trong lòng dân và là hạt nhân của chế độ chính trị cũng như đời sống xã hội9; “chính quyền và các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình”10.

Để xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải có sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó cần đặc biệt chú trọng hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Theo đó, để phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng giai cấp nông dân trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất, hệ thống chính trị cơ sở, cụ thể là cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của giai cấp nông dân về vị trí, vai trò của mình đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới. Đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động người nông dân thay đổi tư duy, nhận thức về xây dựng nông thôn mới; tích cực, chủ động tham gia các phong trào xã hội; gắn quyền lợi, nghĩa vụ với trách nhiệm của người nông dân trong các hoạt động của địa phương, sẵn sàng tham gia các phong trào, hoạt động, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đồng thời, giúp người nông dân nắm rõ kỷ luật lao động, tích cực xây dựng lối sống văn minh, nói và làm theo Hiến pháp, pháp luật.

Thứ hai, tôn trọng và tích cực phát huy quyền làm chủ của giai cấp nông dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì và thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng””11. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng cơ sở, nhất là người đứng đầu các địa phương, cần tôn trọng và tích cực phát huy quyền làm chủ của giai cấp nông dân, lắng nghe tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, giải quyết một cách hợp tình, hợp lý những băn khoăn, trăn trở, ý kiến khiếu nại của người nông dân; thường xuyên quan tâm,

chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện cho người nông dân trong việc tiếp cận thông tin. Thực hiện tốt các chính sách xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, tín dụng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nông nghiệp cho người nông dân; đẩy mạnh giới thiệu việc làm, tạo việc làm tại chỗ cho nông dân theo hướng “ly nông bất ly hương”; đặc biệt, cần thực hiện hiệu quả các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua yêu nước nhằm khơi dậy tính sáng tạo, ý thức trách nhiệm của người nông dân đối với công tác xây dựng Đảng cũng như sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Định kỳ tổ chức đối thoại với người nông dân về các vấn đề xã hội, nhất là việc thực hiện các cơ chế, chính sách liên quan đến đất đai, nhà ở, giải phóng mặt bằng và đền bù, chuyển đổi đất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới… Phát huy tính năng động, sáng tạo của người nông dân trong sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ, giúp đỡ người nông dân trong lưu thông sản phẩm; có sự kết hợp chặt chẽ giữa người nông dân, nhà khoa học và doanh nghiệp trong sản xuất nông nghiệp, từ đó tạo động lực cho người nông dân vươn lên trong sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi để người nông dân tiếp cận với khoa học và công nghệ, tích cực thực hành chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp, song trước hết phải thay đổi tư duy, nhận thức của người nông dân trong việc thích ứng với những biến đổi của thời đại, nhất là sự phát triển mạnh mẽ và ngày càng phổ biến của khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Muốn vậy, cần huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị cơ sở trong việc hướng dẫn, hỗ trợ người nông dân về máy móc, thiết bị, công nghệ, kỹ thuật phục vụ sản xuất, nuôi trồng. Tăng cường liên kết giữa Nhà nước - tổ chức nghiên cứu - doanh nghiệp tổ chức chuyển giao và nông dân để đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến những kinh nghiệm, mô hình sản xuất thành công nhờ ứng dụng khoa học và công nghệ. Xây dựng các vùng, khu vực mẫu về thực hành chuyển đổi số trong nông nghiệp. Tăng cường phối hợp với doanh nghiệp, nhà khoa học, chuyên gia tư vấn trong các lĩnh vực, cung cấp thông tin, kiến thức về kỹ thuật chăm sóc cây trồng, vật nuôi cho người nông dân; hướng dẫn cụ thể cách thức, phương pháp chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp, hướng tới phát triển các mô hình làng thông minh; hướng dẫn, hỗ trợ nông dân chuyển từ mô hình sản xuất hộ gia đình sang hợp tác, liên kết sản xuất chuỗi giá trị, tạo ra nền kinh tế nông nghiệp tuần hoàn; phát triển đa dạng các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, hữu cơ, công nghệ cao gắn với quy trình kỹ thuật chuẩn và mã vùng sản xuất. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề cho nông dân theo hướng “chuyên nghiệp hóa nông dân” gắn với nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp, hợp tác xã để nông dân chủ động tham gia các chuỗi liên kết giá trị nông sản với các mô hình liên kết phù hợp; tư vấn và trợ giúp pháp lý cho nông dân; hỗ trợ về mặt kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật để người nông dân mạnh dạn đầu tư làm giàu chính đáng.

Thứ tư, tạo điều kiện để Hội Nông dân, hợp tác xã phát huy vai trò trong tổ chức thực hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Phát huy vai trò của Hội Nông dân Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp luật, kiến thức sản xuất - kinh doanh, khoa học - công nghệ; đẩy mạnh các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới”. Hội Nông dân Việt Nam ở cơ sở có vai trò quan trọng đối với sự lớn mạnh, trưởng thành của giai cấp nông dân ở địa phương, là tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho quyền và lợi ích của người nông dân.

Do đó, Hội cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về nội dung và phương thức hoạt động của các cấp hội, hướng mạnh về cơ sở; sâu sát đối với hoạt động của giai cấp nông dân theo phương châm “phục vụ nông dân, sát nông dân, được nông dân tin cậy” để giải quyết tốt lợi ích thiết thân của hội viên, nông dân. Đổi mới công tác chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân; khơi dậy và phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, trách nhiệm với cộng đồng của nông dân. Đổi mới hình thức và thực hiện có hiệu quả các chương trình phối hợp giữa các cấp Hội với các cơ quan nhà nước cùng cấp trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn nông thôn. Tham mưu, đề xuất, góp ý với cấp ủy, tổ chức đảng các cấp những vấn đề liên quan đến nhu cầu, nguyện vọng của giai cấp nông dân; hỗ trợ, giúp đỡ người nông dân trong phát triển kinh tế - xã hội, tham gia các vấn đề xã hội của địa phương.


1. Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 6, tr. 248. 3. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê năm 2020, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2021, tr. 164.

4, 5, 6, 7. Lê Thị Hoa: Thực trạng giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra, Tạp chí điện tử Nông thôn mới, ngày 29/5/2022, https://tapchinongthonmoi.vn/thuc-trang-giai-cap-nong- dan-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-van-de-dat-ra-18849.html.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 166.

9, 10. Hoàng Chí Bảo: Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 171.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 96.

ThS. NGUYỄN HỮU TÀI

LÊ NGỌC TOÀN

Trường Đại học Chính trị

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin