1. Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Nhận thức rõ vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, qua nghiên cứu, tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong 30 năm đổi mới và tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân bảo vệ an ninh quốc gia; về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng ta chỉ rõ: Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển của cách mạng nước ta. Đây là sự khẳng định đúng đắn, có tính quy luật, trên cơ sở lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học, nội dung của mối quan hệ này mang tính lịch sử, được xác định một cách phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng. Trong bối cảnh hiện nay, để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân bảo vệ an ninh quốc gia; bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần làm sáng tỏ những nội dung mới về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trên cơ sở đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước một số vấn đề phương pháp luận trong hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, nhằm chỉ đạo thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Quốc phòng, an ninh và đối ngoại là ba thành tố cơ bản, có mối quan hệ khăng khít, xuyên suốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong các kỳ đại hội của Đảng, quan điểm về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại luôn được thể hiện rõ ở từng lĩnh vực cũng như sự gắn kết chặt chẽ giữa chúng với nhau. Đảng ta xác định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”1, trong đó nhấn mạnh quan điểm chủ động giữ nước trong thời bình: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”2; đồng thời chỉ rõ quá trình hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, do đó cần phải chủ động trong việc dự báo, xử lý linh hoạt, kịp thời mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi. Tiếp tục nghiên cứu phát triển lý luận, phát triển mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc; đồng thời bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. “Chủ động, tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh”3. Như vậy, quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng đã trở thành định hướng cho mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Trong quá trình triển khai thực hiện, các cấp, các ngành, nhất là các cơ quan thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại cần chủ động kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta yêu cầu: “Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác”4. Theo đó, thực hiện Luật Quốc phòng (sửa đổi) hoạt động theo nguyên tắc: Kết hợp quốc phòng với an ninh, đối ngoại. Việc kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại được xác định là một trong những nội dung quan trọng của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại được thể hiện cụ thể thông qua các kết quả sau:
Về cơ sở lý luận: Từng bước thể chế hóa, cụ thể hóa nhận thức, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, cụ thể hóa thành luật pháp, chiến lược, sách lược, quy hoạch, kế hoạch để triển khai thực hiện trong thực tiễn: Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật An ninh mạng, Sách trắng Quốc phòng, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Nghị định về đối ngoại quốc phòng, đối ngoại an ninh...; quy định, chỉ thị của Chính phủ về tổ chức thực hiện sự kết hợp giữa các hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Sự ra đời của các văn bản pháp lý đã từng bước hoàn thiện về nhận thức và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong phạm vi cả nước, từng ngành và từng địa phương.
Về thực tiễn: Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, chúng ta đã từng bước phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; tăng cường tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của đất nước; sức mạnh quân sự, quốc phòng, an ninh không ngừng lớn mạnh; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố vững chắc. Đảng ta khẳng định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”5; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước. Đồng thời, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra những điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển nhanh, toàn diện và vững chắc. Đảng ta cũng chỉ rõ: “Củng cố Quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”6; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”7.
Về đối ngoại: Đảng ta khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”8. Đảng ta từng bước lãnh đạo đất nước phá thế bao vây cấm vận từ bên ngoài; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đối tượng và đối tác; chuyển hóa tính chất, nâng cấp mối quan hệ với một số nước thành quan hệ đối tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược; hình thành thế trận ngoại giao vững chắc, bao gồm: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân; đối ngoại quốc phòng, an ninh, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác lâu dài với các nước láng giềng; giải quyết các tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn với các nước trong khu vực bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; thiết lập quan hệ song phương với các nước, đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn; từng bước xây dựng được vị thế, uy tín của Việt Nam là một trụ cột quan trọng trong các diễn đàn, các tổ chức quốc tế, khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa ở một số bộ, ngành, địa phương còn hạn chế; hệ thống pháp luật trong giải quyết mối quan hệ này chưa hoàn thiện, đầy đủ; việc cụ thể hóa sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại thành các quy hoạch, kế hoạch, quy chế, cơ chế hoạt động chưa có sự đồng bộ; sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ; sự phối hợp trong nghiên cứu, dự báo về chiến lược quốc phòng, an ninh và đối ngoại có mặt chưa theo kịp diễn biến của tình hình.
2. Nhiệm vụ, giải pháp và kiến nghị
Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; không ngừng tăng cường tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững9. Để thực hiện có hiệu quả việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, cần tập trung một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đây vừa là giải pháp cơ bản, vừa là định hướng chỉ đạo: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”10; là giải pháp có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ an ninh quốc gia, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực hiện nhiệm vụ tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống, cơ cấu tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, nhận thức rõ về tăng cường sức mạnh và lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới. Đây vừa là nhiệm vụ, vừa là giải pháp quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức của Đảng ta ngày càng rõ hơn về sức mạnh và lực lượng để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt. Để tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”11.
Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, an ninh. Đây vừa là giải pháp cơ bản, vừa là yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Thực hiện tốt nhiệm vụ, giải pháp hoạt động đối ngoại an ninh, quốc phòng trong tình hình mới. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật pháp quốc tế và tham gia các hoạt động vào các cấu trúc khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Bốn là, nâng cao tinh thần yêu nước và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đoàn kết là một truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định “đoàn kết” là giá trị cốt lõi và “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trước những biến động lớn của thời cuộc hiện nay, đòi hỏi tinh thần yêu nước Việt Nam một mặt phải duy trì, củng cố những đặc trưng làm nên sức mạnh truyền thống của dân tộc, mặt khác phải xây dựng và củng cố thêm nền tảng lý luận và sức mạnh mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc... Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức trong hệ thống chính trị tuyên truyền, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng thuận cao trong xã hội”12. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất cao, đòi hỏi phải tiếp tục vận dụng, phát huy truyền thống, đổi mới tư duy, hành động, quyết tâm thực hiện thắng lợi quan điểm, phương châm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.
“Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới. Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”13. Cùng với đó, dự báo các hình thái chiến tranh có thể xảy ra; xác định phương thức tiến hành chiến tranh, phương thức tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, chỉ đạo việc tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước để hình thành thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới… Đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức, viên chức và toàn thể nhân dân, bảo đảm phù hợp với từng đối tượng. Thường xuyên bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh và tăng cường kiểm tra, giám sát, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tốt mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đây là sự kế thừa những bài học kinh nghiệm quý báu, kế sách giữ nước đặc sắc của dân tộc và được bổ sung, phát triển đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới.
Tư duy mới trong nhận thức, quan điểm của Đảng ta về giải quyết tốt mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại không chỉ có nội dung sâu rộng, bao hàm những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, toàn diện, mà còn mang tính chỉ đạo chiến lược xuyên suốt sự nghiệp quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đây là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, do đó, cần quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và tích cực, chủ động phối hợp triển khai đồng bộ các giải pháp, nhằm mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
1, 2, 6, 7, 8, 9, 11, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157, 556-557, 156, 117, 161-162, 109,
157-158, 159.
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 160.
5, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 160-161.
12. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ, ngày 20/8/2021, https://moha.gov.vn/tin-noi-bat/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi- thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-toan-quoc-trien-khai-chuong- trinh-hanh-dong-cua-mat-tran-to-quoc-viet-nam-thuc-46452.html.
Đại tá, PGS, TS. TRẦN NAM CHUÂN
Nguyên cán bộ Viện chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng