Phê phán quan điểm: Việt Nam cần có “kinh tế thị trường”, “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự” thì mới phát triển được (?!)

CT&PT - Bài viết phê phán quan điểm cho rằng Việt Nam chỉ có thể phát triển nếu thực hiện kinh tế thị trường thuần túy, áp dụng tam quyền phân lập và xây dựng xã hội dân sự theo mô hình phương Tây. Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, bài viết khẳng định rằng mô hình phát triển do Đảng ta lựa chọn - nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn lịch sử, văn hóa và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đồng thời, bài viết vạch rõ âm mưu nhân danh dân chủ để chống phá nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo của Đảng, từ đó khẳng định quyết tâm bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

1. Nhận diện âm mưu lợi dụng chiêu bài “kinh tế thị trường”, “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự” để chống phá Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đang kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động không ngừng lợi dụng các khái niệm có vẻ phổ quát như kinh tế thị trường, tam quyền phân lập, xã hội dân sự để xuyên tạc, chống phá. Đây là âm mưu thâm độc nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng, làm suy yếu hệ thống chính trị và định hướng phát triển đất nước.

Chiêu bài “kinh tế thị trường” và sự đánh tráo khái niệm.

Các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam phải “xây dựng kinh tế thị trường đúng nghĩa” theo mô hình phương Tây, tức là phi nhà nước hóa nền kinh tế, trao toàn quyền điều tiết cho thị trường và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Thực chất, đây là một sự đánh tráo khái niệm tinh vi.
Mục tiêu của các thế lực thù địch khi đòi hỏi “kinh tế thị trường thuần túy” là từng bước làm lu mờ vai trò của Đảng và Nhà nước, cổ súy cho tư nhân hóa triệt để, thúc đẩy phân hóa giàu nghèo, kích động mâu thuẫn xã hội và cuối cùng là phá hoại định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua cổ vũ một cách phiến diện mô hình kinh tế thị trường tự do kiểu phương Tây, họ mong muốn đẩy Việt Nam vào một trật tự kinh tế - xã hội bất ổn, mất kiểm soát.

“Tam quyền phân lập” - công cụ phá vỡ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.

Tam quyền phân lập - tức sự phân chia tuyệt đối và đối trọng giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp là một mô hình tổ chức quyền lực phổ biến ở nhiều quốc gia phương Tây. Các thế lực thù địch đã cố tình tuyệt đối hóa mô hình này và cổ súy Việt Nam phải có tam quyền phân lập thì mới có dân chủ và phát triển.
Việc kêu gọi Việt Nam từ bỏ mô hình hiện tại để đi theo “tam quyền phân lập” không đơn thuần là sự góp ý về mặt thể chế, mà là sự can thiệp chính trị nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, từ đó tiến tới làm thay đổi bản chất chế độ. Đây là mũi nhọn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm tạo ra bất ổn nội bộ, chia rẽ hệ thống chính trị và làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; một trong những âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm cần phải phê phán, đấu tranh quyết liệt bằng những luận cứ xác đáng.

“Xã hội dân sự” - chiêu bài mang màu sắc chính trị hóa.

Đây là khái niệm không mới, được hiểu là phần trung gian giữa Nhà nước và thị trường, nơi các tổ chức phi chính phủ, hội đoàn, cộng đồng dân cư tham gia vào đời sống xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại cố tình biến khái niệm này thành một công cụ để chống đối Nhà nước và tạo lập một “quyền lực thứ ba” cạnh tranh với hệ thống chính trị hiện tại. Thông qua việc tài trợ, huấn luyện và kích động một số tổ chức mang danh “phi chính phủ”, họ muốn biến những nhóm này thành lực lượng đối trọng, từng bước gây áp lực chính trị, hình thành “xã hội dân sự đối kháng”, một hình thức tổ chức đối lập trá hình; lợi dụng quyền tự do để cổ súy cho tư tưởng phản động, đòi đa nguyên, đa đảng. Ở nhiều nước, mô hình này từng được sử dụng như bàn đạp để lật đổ chính quyền thông qua các cuộc “cách mạng màu”. Việt Nam không phủ nhận vai trò tích cực của các tổ chức xã hội trong việc tham gia xây dựng và giám sát xã hội. Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội dân sự phải nằm trong khuôn khổ pháp luật, tôn trọng Hiến pháp, không trở thành công cụ chống phá chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

2. Luận cứ bác bỏ quan điểm cho rằng phát triển kinh tế thị trường, thực hiện tam quyền phân lập và xã hội dân sự là lý tưởng và phù hợp với Việt Nam 

Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường khởi đầu là mô hình tự do cạnh tranh thuần túy. Trong mô hình này, các quy luật thị trường vận hành một cách tự phát đã dẫn đến những bất ổn nghiêm trọng như khủng hoảng chu kỳ, phân hóa giàu nghèo, xung đột xã hội. Chính vì vậy, nhu cầu điều tiết từ nhà nước trở thành tất yếu nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường và bảo đảm ổn định xã hội. Các nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước tư bản phát triển ngày nay đều là các nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Hơn nữa, tùy theo mức độ, nội dung và mục tiêu can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế có sự khác nhau ở các nước khác nhau, tạo nên nhiều mô hình kinh tế thị trường hiện đại khác nhau như: Kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu; kinh tế thị trường nhà nước phát triển ở Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng xu hướng chung là đều có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định môi trường cho sự phát triển. Chính sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và vai trò điều tiết của nhà nước đã tạo nên hình thái chủ nghĩa tư bản nhà nước, biểu hiện mới trong tiến trình phát triển của tư bản chủ nghĩa hiện đại.

Tam quyền phân lập là nguyên tắc tổ chức của nhà nước tư bản để không tập trung quá nhiều quyền lực nhà nước vào một cơ quan nhất định bằng sự phân chia quyền lực và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, mặc dù cũng dựa trên nền tảng của nguyên tắc tam quyền phân lập, nhưng ở các nước tư bản phát triển, do mỗi nước có truyền thống lịch sử, văn hóa, có những điều kiện đặc thù của mình, nên không có mô hình tổ chức nhà nước giống nhau, mà có nhiều mô hình tổ chức nhà nước khác nhau. 

Mô hình nhà nước Mỹ có Tổng thống đứng đầu cơ quan hành pháp có quyền lực rất lớn, có Nghị viện gồm hai viện là Thượng viện và Hạ viện nắm quyền lập pháp, có Tòa án tối cao, hệ thống tòa án liên bang và tòa án các bang nắm giữ quyền tư pháp. Ở Pháp, nhà nước có Tổng thống đứng đầu cơ quan hành pháp, nhưng lại có Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm, đứng đầu nội các (Chính phủ) để điều hành hoạt động của nội các; có Nghị viện gồm Thượng viện và Hạ viện, có hệ thống tòa án thực hành quyền tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý và bổ nhiệm các thẩm phán. Ở Anh, thể chế nhà nước lại là nước quân chủ lập hiến, Nữ hoàng Anh là người đứng đầu nhà nước, nguyên thủ quốc gia, trên danh nghĩa là người nắm cả quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng thực tế chỉ có tính biểu tượng. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội gồm hai viện Viện thứ dân (Hạ viện) và Viện quý tộc (Thượng viện). Quyền hành pháp thuộc Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng, là lãnh đạo phe đa số ở Viện thứ dân (Hạ viện). Quyền tư pháp thuộc về hệ thống tòa án đứng đầu là Quan chưởng ấn, người có quyền bổ nhiệm thẩm phán cho các tòa án... Trong thực tiễn chính trị hiện đại của các nước tư bản phát triển, nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân đã trở thành một chuẩn mực được thừa nhận rộng rãi. Nhân dân thông qua lá phiếu của mình để bầu ra quốc hội, tổng thống và phê chuẩn các thành viên chính phủ. Bộ máy nhà nước, trên thực chất, chỉ là cơ quan thay mặt nhân dân thực thi quyền lực - một hình thức ủy quyền chính trị có giới hạn, bị ràng buộc bởi luật pháp và trách nhiệm giải trình. Tuy mô hình tam quyền phân lập được đề cao với các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động độc lập, nhưng trên thực tế, sự phân lập này không hoàn toàn tuyệt đối. Các đảng phái chính trị cạnh tranh quyền lực thông qua cử tri, và khi một đảng nắm giữ đa số ghế trong quốc hội, họ có thể chi phối việc thành lập chính phủ, đề cử tổng thống hoặc thủ tướng, thậm chí ảnh hưởng đến việc bổ nhiệm thẩm phán tòa án tối cao. Do đó, sự kiểm soát lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp - như tư tưởng của G.Locke hay Montesquieu từng đề ra đã có những điều chỉnh lớn để thích ứng với thực tiễn. Việc tuyệt đối hóa mô hình tam quyền phân lập như một khuôn mẫu lý tưởng, bất biến cho mọi quốc gia là phiến diện và lạc hậu. Những người cổ vũ quan điểm này dường như đã bỏ qua thực tế rằng chính các nước phương Tây - nơi sản sinh ra lý thuyết này cũng đang linh hoạt điều chỉnh nó theo hướng thích nghi với bối cảnh xã hội, chính trị hiện đại. Lịch sử không đứng yên, và tư duy về quyền lực nhà nước cũng phải chuyển mình cùng dòng chảy đó.

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền, thay mặt nhân dân quản lý đất nước; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự kiểm soát lẫn nhau, nhưng không phải là sự kiểm soát của những lực lượng đối lập nhau, mà quyền lực của các cơ quan này đều do nhân dân ủy quyền, phân công để thực hiện các chức năng khác nhau, đều do cùng một đảng cầm quyền lãnh đạo, nên còn có trách nhiệm phối hợp với nhau để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý của Nhà nước. Tổ chức bộ máy nhà nước, chức năng, quan hệ phối hợp, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; hoạt động của các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của đảng cầm quyền cũng phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước quản lý đất nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.

Như vậy, thay vì một sự phân quyền thiếu rạch ròi, một sự phân lập tuyệt đối, cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay với tất cả sự ưu việt của nó đã khẳng định tính hợp lý, tính khoa học.

Khái niệm “xã hội dân sự” có nguồn gốc từ phương Tây và được hiểu là những hoạt động tập thể tự nguyện, hình thành và vận hành trong không gian công cộng và tư nhân. Các hoạt động này tồn tại độc lập dưới hình thức các tổ chức và thiết chế tự quản, nằm ngoài sự chi phối trực tiếp của nhà nước, thị trường và gia đình. Theo quan điểm của C. Mác, xã hội dân sự chỉ xuất hiện trong chế độ tư bản chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị. Ông cho rằng: “Thuật ngữ “xã hội công dân” xuất hiện từ thế kỷ XVIII, khi các quan hệ sở hữu vượt ra khỏi những hình thức cộng đồng cổ đại và trung cổ. Xã hội tư sản, với tư cách là một xã hội tư sản chỉ phát triển song hành cùng với giai cấp tư sản. Tuy nhiên, tổ chức xã hội, vốn được hình thành trực tiếp từ quá trình sản xuất và giao tiếp trong mọi thời đại, luôn luôn là nền tảng của nhà nước và kiến trúc thượng tầng tư tưởng, và vẫn được gọi bằng tên gọi này. Theo C. Mác, xã hội dân sự là một công cụ khác nhằm gia tăng lợi ích cho giai cấp thống trị trong chủ nghĩa tư bản, và bản chất của nó vẫn gắn liền với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy rằng xã hội dân sự có vai trò cốt lõi trong việc huy động sự tham gia của quần chúng và các tổ chức, đoàn thể trong quá trình phát triển lịch sử xã hội1.

Ở Việt Nam, các tổ chức mang tính chất xã hội dân sự tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, bao gồm: tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nhân đạo, từ thiện, hữu nghị; các cộng đồng theo dòng tộc, sở thích và các tổ chức dịch vụ công không do nhà nước thành lập. Những tổ chức này hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ tài chính, phi lợi nhuận, tuân thủ các quy định của pháp luật và tích cực hợp tác với Nhà nước. Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các tổ chức xã hội, hiệp hội hay diễn đàn... Đặc biệt, các tổ chức này có khả năng giải quyết một số vấn đề xã hội ở cộng đồng hoặc nhóm xã hội cụ thể; tập hợp và phản ánh nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân đến Đảng và Nhà nước; trực tiếp đảm nhận cung cấp một số dịch vụ xã hội được Nhà nước ủy quyền, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phát triển các tổ chức xã hội đa dạng theo ngành nghề, lợi ích, nhu cầu, nhân đạo, hữu nghị hay sở thích... Đồng thời, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật để các tổ chức này phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích thực sự cho xã hội và người dân. Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, nếu có những đóng góp tích cực cho cộng đồng, thúc đẩy sự phát triển xã hội và tôn trọng pháp luật Việt Nam, đều được Nhà nước tôn trọng và khuyến khích.

Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc tất yếu trong tiến trình phát triển, nước ta phải có các tổ chức xã hội dân sự đối lập với Nhà nước. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; sứ mệnh, chức năng của Nhà nước là phục vụ nhân dân; cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của dân; nhân dân và các tổ chức do nhân dân thành lập không chỉ tự chủ trong hoạt động, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân mà còn có quyền phản biện xã hội các chủ trương, chính sách của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Những nội dung này đều được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của nước ta. Chính điều này đã tạo nên sự đồng thuận xã hội, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân làm nên những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong những năm qua. Thật phi lý khi cổ vũ cho việc tạo ra sự đối lập giữa các tổ chức xã hội do nhân dân lập ra với Nhà nước cũng do nhân dân lập ra để thay mặt nhân dân quản lý đất nước, quản lý xã hội, để phục vụ nhân dân. Những người cổ súy cho xã hội dân sự ngụy biện rằng xã hội dân sự có tính độc lập với Nhà nước và không mang bản chất giai cấp, nhưng thực tế lại cho thấy đều mang tính chính trị, luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng để tiến hành các hoạt động chống Đảng và Nhà nước.

3. Thực tiễn khẳng định tính đúng đắn của mô hình phát triển xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết lại chặng đường 35 năm đổi mới, 30 năm xây dựng đất nước , cũng như đưa ra các phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 5 năm 2021 - 2025, đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Đây là các mốc quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, cổ vũ sự đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tập trung vào việc đề ra các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2025, 2030 và 2045, nhằm phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu về chất lượng trong phát triển, đồng thời ứng dụng thành tựu phát triển của khoa học, công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát huy hiệu quả, ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tận dụng sức mạnh của con người, tích cực, chủ động, giữ vững độc lập, tự chủ hội nhập kinh tế, đồng thời bảo đảm quốc phòng, an ninh, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Những mục tiêu cụ thể được đề ra: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước, mục tiêu là Việt Nam trở thành một quốc gia đang phát triển, có ngành công nghiệp hiện đại và vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, mục tiêu là trở thành một quốc gia đang phát triển, có ngành công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mục tiêu là trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

Nhiệm vụ trọng tâm của việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam là xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, hoạt động một cách đầy đủ và đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời, nền kinh tế này phải được quản lý bởi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và đa dạng thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động theo nguyên tắc hợp tác và cạnh tranh công bằng dưới sự điều chỉnh của pháp luật. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, và việc phân bổ nguồn lực kinh tế của Nhà nước được thực hiện dựa trên cơ chế thị trường, phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển của đất nước. Các quyền sở hữu tài sản, tự do kinh doanh được bảo vệ; phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường, tạo cơ sở cho các quy luật của kinh tế thị trường hoạt động, phát huy vai trò của doanh nghiệp tư nhân; hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, phát triển ngày càng sâu rộng. Nhà nước quản lý bằng luật pháp, chính sách quy hoạch, kế hoạch và sử dụng các nguồn lực kinh tế nhà nước để giữ ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh; điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế; cung cấp các dịch vụ công cần thiết, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp bằng mệnh lệnh hành chính. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong quyết định giá cả, huy động, phân bổ các nguồn lực, điều tiết lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội của dân có chức năng phản biện xã hội, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phản ánh nhu cầu, nguyện vọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, vận động nhân dân thực hiện các chính sách đúng đắn của Nhà nước, tác động đến quan hệ cung cầu lao động, hàng hóa trên thị trường... Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và cơ chế vận hành như vậy là nền kinh tế thị trường hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế, kế thừa những thành tựu phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời, phát triển và có những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò nền tảng của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể; thực hiện phân phối vừa theo kết quả lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa theo mức đóng góp vốn, các yếu tố sản xuất khác, đồng thời phân phối qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; kết hợp phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Đảng ta không phủ nhận quy luật của kinh tế thị trường, nhưng kiên định không đi theo mô hình thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế Việt Nam được xây dựng với sự đa dạng về sở hữu, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước gắn tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã duy trì tăng trưởng ổn định, kiểm soát lạm phát, nâng cao vị thế quốc tế mà không cần sao chép mô hình kinh tế thị trường tự do hoàn toàn.

Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang từng bước hoàn thiện và phát triển thông qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phát triển kinh tế trong nước, kết hợp với sự sáng tạo và vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, Việt Nam cũng tiếp thu và lựa chọn những quan điểm và kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường của các quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế một cách toàn diện, sâu rộng. Quá trình này gắn liền với sự đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhờ tư duy sáng tạo, cách làm đột phá mang dấu ấn riêng của Việt Nam, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”2.

Theo Hiến pháp năm 2013, điều 51 đã khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”3. Điều này cho thấy Việt Nam không phủ nhận kinh tế thị trường, nhưng không sao chép mô hình tư bản chủ nghĩa mà xây dựng một mô hình vừa vận hành theo quy luật thị trường, vừa đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội, phát triển bền vững. Thực tiễn đã chứng minh, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng ổn định hàng chục năm qua, hội nhập sâu rộng và thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài mà không cần áp dụng kinh tế thị trường kiểu phương Tây.

Từ một quốc gia nghèo nàn với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và quy mô nhỏ bé, GDP chỉ đạt 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, đến năm 2023, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng lên 430 tỷ USD, với GDP bình quân đầu người đạt 4.300 USD, gấp 58 lần so với thời kỳ đầu đổi mới. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều đã giảm xuống chỉ còn 2,9%. Đồng thời, từ một nền kinh tế khép kín, Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế mở với mức độ hội nhập toàn cầu cao, giữ vị trí đối tác thương mại lớn thứ 22 trên thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, trong khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt 23 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay, ngay cả trong bối cảnh thị trường quốc tế gặp khó khăn và chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn. Đây thực sự là một điểm sáng trong bức tranh phát triển kinh tế của Việt Nam4.

Đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ tích cực của nhân dân và tạo ra những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường tiềm lực và vị thế của đất nước như hiện nay. Những luận điệu cho rằng Việt Nam chỉ có thể phát triển nếu rập khuôn theo các mô hình như “kinh tế thị trường thuần túy”, “tam quyền phân lập” hay “xã hội dân sự phương Tây” là sự áp đặt phiến diện, thiếu hiểu biết và mang động cơ chính trị thù địch. Thực tiễn sau gần 40 năm đổi mới đã chứng minh rằng con đường phát triển mà Việt Nam lựa chọn, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế tiến bộ của thời đại. Việc kiên định mô hình phát triển này không đồng nghĩa với bảo thủ, mà thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng và tư duy độc lập, sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh tình hình thế giới biến động phức tạp, việc nhận diện và kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ trọng yếu nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển đất nước một cách bền vững, tự chủ và toàn diện.


1. Xem Marx, K. (1843). Critique of Hegel's Philosophy of Right, Chapter: Separation of the State and Civil Society. §288–290. https://www.marxists.org/archive/marx/works/1843/critique-hpr/ch03.htm.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.25.
3. Quốc hội: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội, 2013, tr.10.
4. Xem: Kinh tế Việt Nam nhìn lại sau gần 40 năm đổi mới, ngày 05/4/2025, https://vneconomy.vn/kinh-te-viet-nam-nhin-lai-sau-gan-40-nam-doi-moi.htm.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin