Phát huy vai trò và sức mạnh của đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

CT&PT - Bài viết phân tích những yếu tố quan trọng để phát huy vai trò, sức mạnh và đóng góp to lớn của đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, bài viết đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm khai thác tối đa tiềm năng, phát huy vai trò của vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

167238940516-w550-3647-1752366893.jpeg

Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng Lai Châu cùng nhân dân tuần tra bảo vệ biên giới.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên một lãnh thổ. Trong đó, các dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước, phủ rộng trên 50% diện tích tự nhiên toàn quốc, đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn biên cương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đảm bảo quốc phòng an ninh, bảo tồn văn hóa truyền thống và sinh thái địa phương. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đồng bào DTTS luôn gắn bó với sống và máu thịt với dân tộc Việt Nam, có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò và vị trí của đồng bào DTTS càng được nâng cao trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập, phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc.

1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát huy vai trò đồng bào dân tộc thiểu số

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm: cách mạng Việt Nam là sự nghiệp của toàn dân tộc, trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách rời, là lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân. Quan điểm nhất quán đó được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện chính trị, pháp lý của Đảng và Nhà nước.

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đặt nền tảng cho chính sách dân tộc của Việt Nam, coi bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển là nguyên tắc cơ bản để xây dựng mối quan hệ giữa các dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là nước thống nhất, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng tiến bộ”. Tư tưởng đó đã được thể chế hóa thành hệ thống các chính sách cụ thể của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ thể của đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển đất nước.

Về phương diện Đảng, nhiều nghị quyết, kết luận chuyên đề đã được ban hành để khẳng định và cụ thể hóa chính sách dân tộc. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc, xác định rõ mục tiêu: phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, xóa bỏ dần tình trạng chênh lệch giữa các vùng miền, củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước.

Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24 một lần nữa khẳng định: “Phải đặt công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”. Điều này cho thấy sự nhất quán trong nhận thức và hành động của Đảng đối với việc phát huy vai trò của đồng bào DTTS.

Đặc biệt, Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đã đề cập sâu sắc đến vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số trong bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nhấn mạnh yêu cầu tăng cường quốc phòng - an ninh ở vùng DTTS và miền núi.

Về phương diện Nhà nước, chính sách dân tộc được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật quan trọng. Khoản 3 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành nhiều chương trình mục tiêu quốc gia nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó nổi bật là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg, ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra, hệ thống chính sách dân tộc còn được thể hiện qua các quy hoạch tổng thể, các chương trình 135, 134, 755, 102, 167... với nhiều chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, đào tạo cán bộ, phát triển giáo dục, y tế, bảo tồn văn hóa... phù hợp với đặc thù của từng nhóm dân tộc.

Cùng với đó, các cơ quan chuyên trách về công tác dân tộc được củng cố và kiện toàn như Ủy ban Dân tộc, các Ban Dân tộc ở địa phương, hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội... đã đóng vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần quan trọng trong việc triển khai chính sách và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân.

Có thể nói, chính sách nhất quán và toàn diện của Đảng, Nhà nước Việt Nam về công tác dân tộc đã tạo hành lang pháp lý, chính trị vững chắc để đồng bào DTTS thực sự trở thành chủ thể phát triển, phát huy cao độ vai trò, sức mạnh và giá trị đặc sắc của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Những đóng góp to lớn của đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Đồng bào các dân tộc thiểu số luôn là lực lượng trung thành, gắn bó máu thịt với cách mạng, với Đảng, với dân tộc. Trong suốt chiều dài lịch sử, họ đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước, đồng thời khẳng định vị thế của mình trong tiến trình đổi mới và phát triển bền vững của quốc gia.

Sinh sống chủ yếu ở những khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, nơi địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là những người tiên phong trong việc khai phá đất đai, giữ gìn vùng lãnh thổ mà còn trực tiếp tham gia bảo vệ an ninh biên giới quốc gia. Họ chính là những “phên dậu” vững chắc của Tổ quốc. Nhiều thế hệ người dân tộc thiểu số đã cống hiến, hy sinh trong kháng chiến chống ngoại xâm, trong xây dựng căn cứ cách mạng và nay vẫn kiên cường bám đất, bám bản, phối hợp chặt chẽ với lực lượng chức năng để giữ gìn chủ quyền, an ninh lãnh thổ.

Không chỉ đóng vai trò chiến lược trong quốc phòng - an ninh, đồng bào dân tộc thiểu số còn là lực lượng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, với sự hỗ trợ của các chính sách đặc thù, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có sự thay đổi rõ nét về diện mạo kinh tế. Hệ thống cơ sở hạ tầng - giao thông, điện, nước, trường học, trạm y tế… được đầu tư cải thiện. Nhiều mô hình phát triển sản xuất theo hướng bền vững đã được áp dụng như: trồng rừng kinh tế, nông - lâm kết hợp, chăn nuôi theo chuỗi giá trị, phát triển cây dược liệu, sản phẩm OCOP, du lịch sinh thái gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Người dân không chỉ sản xuất cho đủ ăn mà ngày càng tham gia thị trường, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

Đặc biệt, đồng bào các dân tộc thiểu số đóng vai trò trung tâm trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa truyền thống. Mỗi dân tộc là một kho tàng văn hóa đặc sắc với ngôn ngữ, trang phục, phong tục, lễ hội, âm nhạc, kiến trúc, ẩm thực riêng. Những giá trị đó không chỉ có ý nghĩa trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mà còn là tiềm năng to lớn để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là du lịch cộng đồng. Ở nhiều địa phương, chính người dân là chủ thể thực hiện các hoạt động bảo tồn di sản, phục dựng lễ hội, duy trì nghề thủ công truyền thống, xây dựng mô hình du lịch trải nghiệm. Bằng chính nỗ lực của mình, họ đang truyền cảm hứng và làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam.

Ngoài ra, vai trò làm chủ của đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được khẳng định trong đời sống chính trị - xã hội. Tại nhiều địa phương, đồng bào dân tộc đã và đang đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị, từ cấp thôn bản đến cấp huyện, tỉnh, Quốc hội. Họ là đại diện tiếng nói của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và đồng bào, là người trực tiếp tham gia hoạch định, tổ chức và giám sát thực hiện các chủ trương, chính sách tại địa phương. Sự tham gia ngày càng rộng rãi của người dân tộc thiểu số vào các cơ quan quyền lực nhà nước là minh chứng rõ ràng cho tinh thần dân chủ, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

Không thể không nhắc đến những đóng góp của đồng bào dân tộc thiểu số trong lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững. Sống gần gũi với thiên nhiên, gắn bó với núi rừng, đồng bào dân tộc đã hình thành nhiều tri thức dân gian quý báu trong quản lý tài nguyên, bảo vệ rừng, sử dụng thảo dược, canh tác nông nghiệp thích ứng với khí hậu. Những tri thức này không chỉ giúp người dân ổn định sinh kế mà còn đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn hệ sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu. Các mô hình nông nghiệp sinh thái, phát triển du lịch xanh, kinh tế tuần hoàn đang ngày càng phát triển ở các vùng đồng bào dân tộc như một minh chứng cho khả năng thích ứng và sáng tạo của họ.

Không dừng lại ở đó, tinh thần yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo của đồng bào các dân tộc thiểu số còn thể hiện rõ trong các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự tại cơ sở. Hàng ngàn tập thể, cá nhân tiêu biểu người dân tộc thiểu số đã được tuyên dương, khen thưởng vì có thành tích xuất sắc trong phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, bảo tồn văn hóa, giữ gìn bản sắc và an ninh trật tự thôn bản. Nhiều người trở thành tấm gương sáng, là cán bộ cốt cán, người có uy tín trong cộng đồng, góp phần củng cố niềm tin và sự đoàn kết trong toàn xã hội.

Tóm lại, những đóng góp của đồng bào dân tộc thiểu số trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là rất to lớn, phong phú, đa dạng và toàn diện. Họ không chỉ là lực lượng thụ hưởng chính sách mà thực sự là những chủ thể tích cực, sáng tạo và có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị, trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh – quốc phòng và bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc. Việc phát huy vai trò và sức mạnh của đồng bào dân tộc thiểu số là yêu cầu mang tính chiến lược, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường nội lực quốc gia và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc phát huy vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số, song thực tiễn vẫn còn không ít khó khăn, thách thức cản trở quá trình phát triển toàn diện của cộng đồng này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một trong những khó khăn nổi bật là sự chênh lệch lớn về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng dân tộc thiểu số và vùng đồng bằng, đô thị. Nhiều địa phương vùng cao, biên giới vẫn còn tỷ lệ hộ nghèo cao, hạ tầng thiết yếu chưa đồng bộ, điều kiện tiếp cận giáo dục, y tế, nước sạch, thông tin còn nhiều hạn chế. Hệ quả là chất lượng nguồn nhân lực ở các vùng này chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, hội nhập; năng lực sản xuất còn thấp, trình độ phát triển chưa đồng đều.

Bên cạnh đó, trình độ dân trí và kỹ năng nghề của người dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều nơi, tỷ lệ mù chữ hoặc tái mù vẫn ở mức cao, nhất là ở nhóm dân tộc rất ít người. Việc tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ và chuyển đổi mô hình sản xuất hiện đại còn gặp khó khăn do rào cản ngôn ngữ, trình độ học vấn và tập quán canh tác truyền thống. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường và xu thế chuyển đổi số.

Một thách thức lớn khác là nguy cơ mai một văn hóa truyền thống, khi quá trình toàn cầu hóa và đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ. Không ít giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào đang đứng trước nguy cơ bị phai nhạt, nhất là trong giới trẻ. Việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết, lễ hội, âm nhạc, kiến trúc truyền thống... gặp trở ngại do thiếu nguồn lực và môi trường phát huy. Tình trạng “hòa tan văn hóa” và đồng hóa trong không gian mạng cũng là nguy cơ đe dọa đến tính đa dạng văn hóa dân tộc.

Mặt khác, công tác cán bộ dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều bất cập. Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý cấp cao còn thấp; cơ cấu chưa hợp lý giữa các dân tộc, vùng miền. Công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đồng đều, thiếu tính chiến lược lâu dài. Điều này phần nào ảnh hưởng đến tiếng nói đại diện và vai trò làm chủ của đồng bào DTTS trong hệ thống chính trị.

Ngoài ra, tình hình an ninh chính trị ở một số địa bàn vùng dân tộc và miền núi còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Một số thế lực phản động, thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Những luận điệu này, nếu không được nhận diện và đấu tranh kịp thời, có thể tác động tiêu cực đến tư tưởng, niềm tin và sự ổn định chính trị - xã hội tại địa phương.

Không thể không nhắc tới hạn chế trong việc thực hiện các chính sách dân tộc. Một số chính sách còn chồng chéo, thiếu thống nhất, hiệu lực triển khai ở cơ sở chưa cao, việc giám sát, đánh giá tác động chưa được thực hiện thường xuyên. Nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào DTTS tuy đã được quan tâm hơn nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa thật sự hiệu quả, còn biểu hiện hình thức, thiếu gắn kết với nhu cầu thực tiễn của người dân.

Những thách thức nêu trên đặt ra yêu cầu bức thiết phải tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện để thực sự phát huy được nội lực, vai trò chủ thể và tinh thần làm chủ của đồng bào dân tộc thiểu số. Có như vậy, mục tiêu phát triển toàn diện, bền vững và công bằng mới thực sự trở thành hiện thực trong cộng đồng các dân tộc anh em trên khắp mọi miền đất nước.

3. Giải pháp phát huy vai trò, sức mạnh của đồng bào dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay

Để phát huy hiệu quả vai trò và sức mạnh của đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần triển khai đồng bộ một số nhóm giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện và thực thi hiệu quả hệ thống chính sách dân tộc.

Chính sách cần bảo đảm tính nhất quán, liên thông, thiết thực, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng dân tộc. Cần ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát triển hạ tầng thiết yếu, giáo dục, y tế, nước sạch, thông tin, điện lưới… ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính quyền cơ sở, tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát và phản biện các chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cộng đồng.

Thứ hai, phát triển toàn diện nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số. 

Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đặc biệt ở bậc phổ thông dân tộc nội trú, trường bán trú và đào tạo nghề phù hợp với đặc thù vùng miền. Cần có cơ chế ưu tiên tuyển sinh, học bổng, hỗ trợ học tập cho con em dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên là người dân tộc thiểu số. Chú trọng công tác bồi dưỡng, quy hoạch, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp.

Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với bản sắc văn hóa và bảo vệ môi trường.

Khuyến khích các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn; hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP mang đặc trưng địa phương; nhân rộng mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cần kết hợp phát triển du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa với bảo tồn các giá trị truyền thống, qua đó vừa tạo sinh kế, vừa lan tỏa giá trị di sản.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số.

Xây dựng cơ chế hỗ trợ việc bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết, lễ hội, trang phục truyền thống. Hỗ trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ dân gian trong công tác truyền dạy, sưu tầm, phục dựng di sản văn hóa. Cần đưa nội dung giáo dục văn hóa dân tộc vào trường học, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa trong thế hệ trẻ.

Thứ năm, nâng cao vai trò của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số.

Đây là lực lượng có ảnh hưởng lớn trong tuyên truyền, vận động quần chúng, giải quyết mâu thuẫn, giữ gìn an ninh - trật tự ở cơ sở. Cần có chính sách đãi ngộ phù hợp, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, cập nhật thông tin, kỹ năng cho đội ngũ này, đồng thời phát huy vai trò trong tham gia xây dựng và phản biện chính sách.

Thứ sáu, tăng cường bảo đảm quốc phòng - an ninh và phòng chống âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch.

Cần phát triển hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, tổ chức tốt lực lượng dân quân, công an xã là người dân tộc thiểu số; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức chính trị cho đồng bào, đặc biệt tại khu vực biên giới. Đồng thời, chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những luận điệu xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Thứ bảy, tăng cường phối hợp liên ngành, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và toàn dân trong thực hiện công tác dân tộc.

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội nghề nghiệp cần chủ động đổi mới phương thức hoạt động, vận động hội viên tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ môi trường, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc tại chỗ.

Những giải pháp nêu trên cần được triển khai một cách đồng bộ, kiên trì, có sự giám sát, kiểm tra thường xuyên và lấy người dân làm trung tâm, chủ thể của quá trình phát triển. Chỉ khi đồng bào dân tộc thiểu số thực sự được trao quyền, có tiếng nói và được hỗ trợ đầy đủ về thể chế, nguồn lực và tri thức, họ mới có thể phát huy toàn diện vai trò và sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin