Đổi mới hoạt động của Công đoàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

CT&PT - Giai cấp công nhân Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ biến đổi và phát triển. Những biến đổi và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam có liên quan chặt chẽ với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã ghi nhiều dấu ấn về sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu tổ chức.

CT&PT - Giai cấp công nhân Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ biến đổi và phát triển. Những biến đổi và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam có liên quan chặt chẽ với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã ghi nhiều dấu ấn về sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu tổ chức.

Sự cần thiết khách quan đổi mới hoạt động của Công đoàn Việt Nam

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân (GCCN), nên đời sống, việc làm của công nhân, lao động từng bước được ổn định; số lượng, chất lượng GCCN từng bước được nâng lên, cơ cấu GCCN từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Hiện nay, GCCN nước ta mới chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội, có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách cả nước1, nhưng đang nắm giữ những cơ sở vật chất quan trọng nhất và có tính quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế - xã hội, thực sự là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang phát triển nhanh chóng, có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cuộc đua giành thắng lợi trong sản xuất, kinh doanh hiện nay chủ yếu là đua tranh về trí tuệ, về hàm lượng chất xám, chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, GCCN nước ta hiện đang còn bộc lộ không ít mặt hạn chế: Trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng, nghề nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc, nhiều công nhân chưa qua đào tạo; thiếu kỹ sư giỏi và công nhân lành nghề trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và công nghệ; có sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân; ý thức phấn đấu rèn luyện, học tập nâng cao trình độ, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của không ít công nhân chưa cao; giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật của công nhân còn nhiều hạn chế; tỷ lệ đảng viên là cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp, một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động đoàn thể. Đời sống, việc làm, điều kiện ăn ở, sinh hoạt của một bộ phận công nhân còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập thấp, chưa tương xứng với thành tựu đổi mới của đất nước và đóng góp của họ.

Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt trong liên minh GCCN, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta luôn gắn việc xây dựng GCCN với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm hài hòa các lợi ích, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của GCCN; coi việc nâng cao trình độ tay nghề, trí thức hóa công nhân là nhiệm vụ chiến lược, xây dựng đội ngũ công nhân trẻ có học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của GCCN. Đảng ta xác định rõ: “Xây dựng GCCN nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội”2.

Xây dựng GCCN thành lực lượng đi đầu trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ cấp bách, một hướng trọng tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Nhiệm vụ nặng nề đặt ra cho tổ chức Công đoàn Việt Nam là phải tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/01/2008 về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy đảng, sự triển khai đồng bộ trong tổ chức công đoàn và sự phối hợp chặt chẽ của các ngành chức năng có liên quan. Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua nhiều nội dung quan trọng, trong đó có Chiến lược xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam thời kỳ mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định nhiệm vụ: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ Luật Lao động và Luật Công đoàn (sửa đổi) thể hiện bước đổi mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước về xây dựng GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam. Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, thông qua Hiến pháp sửa đổi, trong đó Điều 10 ghi rõ: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”3.

Những đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) về đổi mới toàn diện, sâu sắc, giải phóng mọi tiềm năng sẵn có, phát triển nhiều thành phần kinh tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, thực hiện ba chương trình kinh tế, Đại hội VI của Công đoàn Việt Nam đã chủ trương đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn theo hướng thiết thực, hiệu quả, sát đoàn viên, sát cơ sở, khắc phục tình trạng hành chính hóa trong hoạt động công đoàn. Đại hội XI của Công đoàn Việt Nam khẳng định phải tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng GCCN của tổ chức công đoàn.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa X về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở4, các cấp công đoàn đã tập trung chỉ đạo, thực hiện việc đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở; bảo đảm chất lượng những công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn “Công đoàn cơ sở vững mạnh”, định kỳ hằng năm kiểm tra, đánh giá, phân loại hoạt động của công đoàn cơ sở.

Nội dung và phương thức hoạt động công đoàn có bước đổi mới, đã làm rõ hơn về mô hình tổ chức, nội dung, nhiệm vụ của từng cấp công đoàn, từng loại hình công đoàn cơ sở. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về tổ chức, cán bộ, nội dung hoạt động của công đoàn cấp trên cơ sở, làm rõ nội dung hoạt động của công đoàn cơ sở phù hợp với các thành phần kinh tế và đề cao trách nhiệm của công đoàn cấp trên cơ sở trong việc hỗ trợ cho công đoàn cơ sở, nhất là ở nơi gặp khó khăn trong hoạt động. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XI, họp từ ngày 06 đến 07/6/2014, đã thông qua Nghị quyết “Nâng cao hiệu quả hoạt động của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đáp ứng yêu cầu phong trào công nhân và hoạt động công đoàn trong tình hình mới”. Các cấp công đoàn hướng mạnh hoạt động về cơ sở, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Công đoàn cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa cho công nhân; tập hợp trí tuệ của công nhân để tham gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thực hiện chính sách, pháp luật.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản về công tác cán bộ cho phù hợp với các quy định của Đảng, Nhà nước. Chất lượng cán bộ công đoàn nhìn chung được nâng lên cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác công đoàn, về lý luận chính trị và năng lực thực hiện nhiệm vụ. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn cơ sở, nâng cao trình độ chính trị, hiểu biết chính sách, pháp luật lao động và kỹ năng công tác. Tăng cường và mở rộng quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với GCCN và công đoàn các nước trên toàn thế giới.

Công đoàn chủ động phối hợp với chính quyền các cấp phát động sâu rộng và tổ chức các phong trào hành động cách mạng trong công nhân, lao động; động viên đông đảo công nhân, lao động phát huy quyền làm chủ, đi đầu trong các phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội; liên tục đổi mới nội dung và hình thức tổ chức các phong trào thi đua phù hợp với đặc điểm của ngành, địa phương và cơ sở; hướng phong trào thi đua vào mục tiêu “năng suất - chất lượng - hiệu quả”, “việc làm - đời sống - dân chủ và công bằng xã hội”, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống; nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề cho công nhân, lao động; góp phần tăng trưởng kinh tế, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành và địa phương.

Tích cực phát triển các hoạt động xã hội, tăng cường đoàn kết, tương thân, tương ái, làm cho đoàn viên công đoàn và người lao động gắn bó với tổ chức công đoàn, nâng cao vị thế của tổ chức công đoàn trong cộng đồng xã hội. Các cấp công đoàn trong cả nước đã lấy hoạt động xã hội làm nội dung quan trọng để tập hợp, vận động quần chúng và góp phần giải quyết việc làm, cải thiện đời sống công chức, viên chức và người lao động. Một số hoạt động nổi bật, như Quỹ “Xã hội từ thiện Tấm lòng vàng”, “Vì người nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xóa đói, giảm nghèo”, “Mái ấm công đoàn”, đặc biệt Chương trình “Tấm lưới nghĩa tình vì ngư dân Hoàng Sa, Trường Sa”, Chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” đã thu hút sự tham gia hưởng ứng của hàng triệu lượt đoàn viên, người lao động, tổ chức, doanh nghiệp trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài với số tiền hỗ trợ, ủng hộ hàng chục tỷ đồng, giúp hàng trăm trường hợp gia đình ngư dân gặp khó khăn khi hành nghề trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật theo Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg, ngày 24/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XI về nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong công nhân, viên chức, lao động được các cấp công đoàn quan tâm chỉ đạo thực hiện, trong đó tập trung chủ yếu vào công nhân, lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đã góp phần tích cực nâng cao nhận thức, kiến thức pháp luật cho đoàn viên và người lao động5, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. Các cấp công đoàn đã có nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền về Chương trình phát triển đoàn viên; tuyên truyền, vận động ngư dân tham gia thành lập nghiệp đoàn nghề cá...

Hoạt động “Tháng Công nhân” chính thức được công đoàn phát động trong cả nước năm 2011 gắn với kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (01/5) đã thu hút hàng triệu lượt người tham gia, mang lại những kết quả cụ thể, thiết thực, đánh dấu bước phát triển trong đổi mới hình thức tập hợp đoàn viên, người lao động. Từ kết quả bước đầu, đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI có kết luận việc triển khai “Tháng Công nhân” hằng năm6.

Bên cạnh đó, các cấp công đoàn đã triển khai đa dạng các hình thức tư vấn pháp luật và nâng cao chất lượng công tác trợ giúp pháp lý, thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho người lao động. Thực hiện tốt Chỉ thị số 22-CT/TW, ngày 05/5/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. Tham gia giải quyết tốt các vụ tranh chấp lao động và đình công thông qua đối thoại hòa giải tại cơ sở. Các cấp công đoàn đã có nhiều hình thức, biện pháp chỉ đạo và tổ chức công tác tư vấn pháp luật cho đoàn viên, người lao động. Đến nay, hệ thống tư vấn pháp luật của công đoàn có 14 trung tâm, 36 văn phòng, 19 tổ tư vấn pháp luật thuộc các liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành Trung ương và 572 tổ tư vấn pháp luật trực thuộc các liên đoàn lao động huyện, khu công nghiệp được thành lập. Hoạt động của các trung tâm, văn phòng và tổ tư vấn pháp luật đã đạt nhiều kết quả thiết thực, hướng về cơ sở với nhiều hình thức phong phú; đã tư vấn, trợ giúp pháp lý được hàng chục nghìn vụ, việc, góp phần bảo vệ quyền lợi của người lao động.

Hằng năm, công đoàn các cấp chủ động tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước tổ chức hàng chục nghìn cuộc kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động. Qua kiểm tra, nhiều kiến nghị của công đoàn được chuyển tới các cơ quan chức năng nghiên cứu xử lý, giải quyết. Các cấp công đoàn đã tích cực tổ chức tiếp công nhân, lao động; giải quyết, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong 5 năm (2008 - 2013), công đoàn các cấp giải quyết, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo đã góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho hơn 85.000 người, trong đó, 7.252 người được trở lại làm việc; 1.189 người được hạ mức kỷ luật; 76.937 người được giải quyết các quyền lợi khác.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã hướng dẫn về cơ chế quản lý, phân phối, sử dụng tài chính, tài sản công đoàn theo mục tiêu hướng về cơ sở, tập trung kinh phí chi cho hoạt động của công đoàn cơ sở. Các cấp công đoàn đã sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn kinh phí cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, sinh hoạt văn hóa, thi đua khen thưởng, phúc lợi xã hội, trả lương, phụ cấp cho cán bộ công đoàn và các hoạt động khác của đoàn viên và người lao động; ưu tiên kinh phí cho công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, hoạt động bảo vệ đoàn viên, người lao động và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp.

Tiếp tục đổi mới hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Thời gian tới, Công đoàn Việt Nam tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

- Chú trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, dự báo về GCCN và hoạt động công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong giai đoạn chúng ta đã và đang đàm phán, ký kết tham gia các hiệp định thương mại song phương, đa phương với các đối tác trong khu vực và trên thế giới, như WTO, Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - EU, Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương - TPP... để từ đó đánh giá những tác động đối với phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Việt Nam, nhằm từng bước hoàn thiện lý luận về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam trong tình hình mới, về vị trí, vai trò của công đoàn và những bài học kinh nghiệm hoạt động công đoàn trong các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động công đoàn.

- Tăng cường hơn nữa công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn, đặc biệt là cán bộ công đoàn xuất thân từ công nhân, cán bộ nữ, cán bộ mới tham gia công đoàn lần đầu; xây dựng chính sách thu hút để có những cán bộ giỏi, có năng lực làm công tác công đoàn nhằm không ngừng phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ công đoàn, góp phần xây dựng, bổ sung cho nội dung và phương thức hoạt động công đoàn các ngành, các cấp ngày càng trở nên phong phú, thiết thực, phù hợp với chức năng công đoàn và đáp ứng được yêu cầu của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn trong tình hình mới.

- Xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, không ngừng phát huy dân chủ của cán bộ đoàn viên công đoàn nhằm tạo môi trường để khơi dậy tính sáng tạo của cán bộ đoàn viên đóng góp trí tuệ vào việc xây dựng, bổ sung nội dung, phương pháp hoạt động công đoàn. Mặt khác, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, bảo đảm sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng phối hợp giữa tổ chức công đoàn với chính quyền, giữa tổ chức công đoàn với các tổ chức chính trị - xã hội khác.

- Nâng cao chất lượng công tác thông tin báo cáo trong hệ thống công đoàn, đề cao trách nhiệm cá nhân và chế độ thực hiện thông tin báo cáo của lãnh đạo công đoàn các cấp, nhất là các cấp ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ. Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức và hoạt động công đoàn.


1. Đặng Ngọc Tùng (Chủ biên): Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2010, tr. 47.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 43.

3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 12-13.

4. Nghị quyết số 6a/NQ-TLĐ, ngày 06/01/2011.

5. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã biên soạn trên 53.000 tài liệu về lao động và công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; xây dựng được 14.581 tủ sách pháp luật với hàng trăm đầu sách

6. Thông báo số 77-TB/TW, ngày 24/02/2012 của Ban Bí thư về tổ chức “Tháng công nhân”.

Theo Tạp chí Cộng sản

Công Tây tổng hợp

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin