1. Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng Đảng và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người coi đây là vấn đề quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của cách mạng và sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh trên thế giới xuất hiện nhiều trào lưu cách mạng và khuynh hướng tư tưởng, cách mạng Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”1, Người nhận thức rằng: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”2. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Người xác định: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”3.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở là làm sao xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go, ác liệt, tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Người thẳng thắn nêu ra những khuyết điểm của Đảng: “Ở các cơ quan lãnh đạo các cấp, về lề lối làm việc, về chủ trương và cách lãnh đạo còn có những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng. Ấy là những bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần”4 và Người yêu cầu phải thật thà tự phê bình để sửa chữa, phải cố gắng sửa chữa để tiến bộ.
Tháng 5/1968, khi giở lại tài liệu “Tuyệt đối bí mật”, Người viết thêm mấy điều, trong đó có đoạn: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man... Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”5. Người cũng chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”6. Chỉ trong mấy dòng mà Người nhắc đi nhắc lại các từ “thật”, “thật sự”. Điều này cho thấy sự trăn trở của Người đối với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, sự quan tâm đến vận mệnh của Đảng và tương lai của đất nước. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo đức mới, không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích của Đảng, dân tộc và nhân loại; đề cập chung cho mọi tầng lớp, mọi đối tượng, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó bao gồm cả xây và chống. “Xây” là rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, “chống” là chống thói hư tật xấu, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Người, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước giàu mạnh là “công việc khổng lồ”, là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, gian khổ, do đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải sẵn sàng hy sinh, phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đạo đức cách mạng là phẩm chất đầu tiên, cơ bản, nền tảng của người cán bộ, đảng viên: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”7.
Trong nhiều tác phẩm, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “nói thì phải làm”, phải “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”8… Trong Di chúc, Người một lần nữa nhắc nhở và nhấn mạnh phải “thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” với mong muốn cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu nhiều hơn nữa, cao hơn nữa. Theo Người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu đều thuộc phạm trù đạo đức cách mạng. Đảng ta là một đảng cầm quyền, nên phải thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc. Đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định, mẫu mực về đạo đức và lối sống, có tầm cao trí tuệ để lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. “Giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, “xứng đáng là người lãnh đạo” và “người đày tớ thật trung thành của nhân dân” là ba yếu tố được đặt trong một chỉnh thể thống nhất, biện chứng, gắn bó, bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho sự phát triển vững mạnh và sức chiến đấu của Đảng, để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thành công.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là việc làm thường xuyên, liên tục, bao gồm nhiều việc và phải được tiến hành trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, xây dựng đất nước thời bình, cán bộ, đảng viên dễ chủ quan, duy ý chí, lên mặt “quan cách mạng”, dễ bị sa ngã trước sự quyến rũ bởi quyền lực và tiền bạc, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm giảm uy tín của Đảng, bôi nhọ danh hiệu người đảng viên cộng sản. Điều này đã được Người nhiều lần cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”9.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Việt Nam đứng trước nhiều vấn đề mới, trong đó những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức. Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, cơ bản, thường xuyên và cấp bách. Qua gần 40 năm đổi mới, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là khi công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh càng phải được quan tâm chú trọng; năng lực và vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải được củng cố, tăng cường; đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng càng phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, kiên định mục tiêu, lý tưởng, vững vàng vượt qua mọi thách thức.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém như: một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt về lý tưởng, dao động về mục tiêu và con đường đã chọn, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, thậm chí là quan liêu, tham nhũng, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần tập trung là: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”10.
2. Là người đặt nền móng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đối với lực lượng Công an nhân dân, ngay từ khi giành được chính quyền (tháng 8/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm đến việc xây dựng, rèn luyện, kiện toàn lực lượng để Công an nhân dân trở thành công cụ chuyên chính sắc bén bảo vệ Đảng, chính quyền và bảo vệ nhân dân. Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, trong đó có cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, tựu trung lại gồm những phẩm chất sau:
Thứ nhất, trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Đối với lực lượng Công an nhân dân, “trung với nước” là yêu cầu hàng đầu, mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an phải có lòng yêu nước nồng nàn, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; suốt đời phấn đấu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vì an ninh, trật tự của đất nước; kiên trì và kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. “Hiếu với dân” là phải tận trung, tận hiếu với nhân dân; kính trọng, lễ phép với nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
Người chỉ rõ nhiệm vụ chính trị nặng nề nhưng hết sức vẻ vang của lực lượng Công an nhân dân: “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an để giữ trật tự an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân”11; “Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân… Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân”12; “Công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc”13; “Nhiệm vụ của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân”14; “Nhiệm vụ của công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt là bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa”15.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù việc lớn hay nhỏ, lực lượng Công an cách mạng đều phải biết “dựa vào nhân dân mà làm việc”16, phải “thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”17, “có dựa vào nhân dân thì công an mới hoàn thành được tốt nhiệm vụ của mình”18, phải biết “đoàn kết nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân”19, mới xứng đáng là “người Công an nhân dân của một nước dân chủ nhân dân”20.
Thứ hai, yêu thương con người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của người Việt Nam, trong đó có những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Công an nhân dân. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí vô cùng bao la, rộng lớn, bao dung cả với những người phạm sai lầm, khuyết điểm. Trong Di chúc, Người căn dặn, trong Đảng “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Phẩm chất này yêu cầu lực lượng Công an nhân dân phải “trọng dân”, “tin dân”, “gần dân”, sẵn lòng giúp đỡ nhân dân. Phải kính trọng người già, yêu mến trẻ em, tôn trọng phụ nữ, thông cảm và giúp đỡ người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn; khoan dung, độ lượng với người mắc sai lầm, khuyết điểm và vi phạm pháp luật, kiên trì giáo dục, thuyết phục, giúp họ khắc phục sai lầm, khuyết điểm để trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội. Đối với đồng chí, đồng đội, cán bộ, chiến sĩ Công an phải có tình đồng chí, đồng đội, yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sinh hoạt, công tác, chiến đấu.
Thứ ba, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng đối với xã hội, cộng đồng, phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành cần, kiệm, liêm, chính, làm gương cho quần chúng nhân dân, đóng góp tích cực cho Đảng, cho cách mạng.
Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Người, mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân phải luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong công tác, chiến đấu, học tập, tu dưỡng, rèn luyện cũng như trong cuộc sống, cán bộ, chiến sĩ Công an phải luôn thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tiết kiệm sức lao động, thời gian, tài sản của Nhà nước, nhân dân và bản thân, có lối sống giản dị; nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh; nêu cao tinh thần chí công vô tư, khách quan, trung thực, liêm chính, không làm hại người tốt, không bao che kẻ xấu, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm.
Thứ tư, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản “Bốn phương vô sản đều là anh em!”21, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp thông qua hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân và sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là tinh thần hợp tác và hữu nghị.
Đối với lực lượng Công an nhân dân, chuẩn mực tinh thần quốc tế trong sáng được thể hiện bằng tính chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế về an ninh, trật tự, giữ vững nguyên tắc lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục đích cao nhất để điều chỉnh sách lược một cách linh hoạt, kịp thời và phù hợp với những đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trong thời kỳ mới của cách mạng, thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, trước những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, trên tinh thần đoàn kết quốc tế, lực lượng Công an nhân dân cần tăng cường mối quan hệ truyền thống, chân thành học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với Công an nhân dân các nước, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự đặt ra rất nặng nề, đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân cần phát huy truyền thống anh hùng, vẻ vang, tiếp tục thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nghiêm Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy” và các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước khác. Thực hiện tốt khẩu hiệu hành động “Chủ động, kỷ cương, trách nhiệm, hiệu quả”, thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh việc chấp hành các quy trình, quy chế công tác, Điều lệnh Công an nhân dân, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xây dựng tác phong chính quy, phong cách ứng xử văn hóa, chú trọng tổ chức “Diễn đàn Công an lắng nghe ý kiến nhân dân”.
Mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Công an nhân dân cần thường xuyên tự giác thực hiện “tự soi, tự sửa”, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng và thực hiện nhiệm vụ của đơn vị đi vào thực chất, công khai, dân chủ, đề cao tính nêu gương của người đứng đầu và phát huy trí tuệ của tập thể, dần đi vào nền nếp và trở thành hành động tự thân trong sinh hoạt, công tác, chiến đấu hằng ngày của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân...
Cán bộ, chiến sĩ Công an phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng để luôn vững vàng trước sự tấn công, mua chuộc, vu khống, bôi nhọ của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm, trước những cám dỗ tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; đồng thời, phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, say mê trong công việc, khắc phục khó khăn, gian khổ; sáng tạo, nhạy bén, mưu trí, dũng cảm trong công tác và chiến đấu. Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện ngại khó, ngại khổ, thiếu trách nhiệm trong công tác, nhất là tư tưởng trung bình chủ nghĩa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ Công an.
Tích cực triển khai đồng bộ các biện pháp, phương án, kế hoạch phòng ngừa, phát hiện và kịp thời đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử xấu lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước, đi ngược lại truyền thống đạo đức, văn hóa của dân tộc. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, chấn chỉnh việc chấp hành pháp luật, điều lệnh, ý thức tổ chức kỷ luật trong Công an nhân dân, tác phong công tác và thái độ ứng xử với nhân dân.
Kịp thời phát hiện, đề xuất xử lý hoặc xử lý theo thẩm quyền những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lợi dụng chức trách, nhiệm vụ được giao để nhũng nhiễu, gây phiền hà, vi phạm pháp luật, quy trình, quy chế công tác khi thi hành công vụ, giải quyết công việc liên quan đến người dân và doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và quy định của ngành, góp phần làm trong sạch nội bộ, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an nhân dân.
1, 2, 3, 4, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 12, tr. 401; t. 2, tr. 289; t. 3, tr. 4; t. 7, tr. 33; t. 5, tr. 292-293.
5, 6, 8, 9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616, 611, 547, 672.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 199-200.
11, 12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 269.
13, 16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 498.
14, 19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 259, 83.
15, 18, 21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 221, 223, 670.
17, 20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 270.
ThS. NGUYỄN THU HẰNG
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật