CT&PT - Lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng về dân chủ, nhân quyền, xác lập quyền làm chủ của người dân, thiết lập, xây dựng và tổ chức hoạt động của nhà nước; đồng thời, loại trừ chuyên chế, độc tài, vô chính phủ dưới mọi hình thức. Mầm mống tư tưởng nhà nước pháp quyền xuất hiện từ thời kỳ cổ đại và phát triển trong thời kỳ cận đại, khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị xã hội. Cho đến nay, lý luận về pháp quyền, nhà nước pháp quyền vẫn là vấn đề mới, quan trọng, cần được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và tổ chức triển khai, nhằm xây dựng mô hình nhà nước phù hợp, đồng bộ và thống nhất.
1. Trong cuốn sách Nghiên cứu và Luật Hiến pháp (Introdution to the Study of the Law of the Constitution) xuất bản năm 1885, A.V. Dicey lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Rule of Law”, trong đó giải thích nội hàm khái niệm “Rule of Law” như một xã hội pháp quyền chứ không phải là nhà nước pháp quyền. Trên thực tế, dịch một cách trung thành nhất sang tiếng Việt về ngữ nghĩa khoa học của “Rule of Law” đã được thể hiện trong những văn kiện quốc tế như: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948: “Xét rằng điều cốt yếu là quyền con người phải được một chế độ pháp quyền bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền”1; Tuyên ngôn Thiên niên kỷ Liên hợp quốc năm 2000 thể hiện cam kết của các quốc gia: “thúc đẩy sự “tôn trọng pháp quyền” trong các quan hệ ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế…”2. Trong các bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”3, chứ không sử dụng khái niệm “nhà nước pháp quyền”. Trên cơ sở đó có thể khẳng định, “Rule of Law” là pháp quyền chứ không phải là nhà nước pháp quyền.
Không chỉ về logic hình thức, nội hàm của khái niệm “Pháp quyền” - Rule of Law cũng có sự khác biệt với nội hàm của khái niệm “nhà nước pháp quyền”. “Nhà nước pháp quyền” và “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là những thuật ngữ chính trị pháp lý riêng có của Việt Nam, xuất hiện từ những năm 80 của thế kỷ XX và chính thức được ghi nhận trong các văn kiện chính trị pháp lý từ đầu những năm 1990. Thực chất “nhà nước pháp quyền ” theo cách gọi của Việt Nam được dịch từ tiếng Nga “Verhovenstvo zakona - верховенство закона” hoặc “Pravovoe gasudastovo - Правовое государство”. Sau đó, cụm từ “Rule of Law” được các nhà nghiên cứu Việt Nam dịch sang tiếng Việt thành “nhà nước pháp quyền”4. Ý nghĩa của thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” là đưa ra mô hình về một nhà nước, xác định quyền lực và cấu trúc quyền lực của nhà nước, củng cố quyền lực và vị thế của nhà nước, coi nhà nước là đối tượng chính để hoàn thiện, củng cố, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động.
Rule of Law - pháp quyền là trạng thái phát triển tự nhiên, xu hướng khách quan của sự vận động xã hội, trong đó lấy pháp luật tự thân, tôn trọng công lý, bảo đảm nhân quyền là nguyên tắc hành xử cho mọi thành viên trong xã hội, đối với mọi chủ thể quan hệ pháp luật. Rule of Law - pháp quyền không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội và hoạt động chính trị, không đưa ra bất kỳ mô hình tổ chức bộ máy nhà nước nào, mà đòi hỏi nhà nước phải tuân thủ theo nguyên tắc của Rule of Law, đó là tôn trọng công lý, pháp luật, công bằng và quyền con người. Khi viết Khế ước xã hội, J.J. Russo (1712 - 1778) minh định tìm ra nguyên lý chính đáng để thiết lập một chính quyền và xã hội dân sự, trong đó nhân dân trao quyền lực cho nhà nước, nhà nước điều hành đất nước theo ý chí của nhân dân; đồng thời, quyền lực chính trị của chính quyền sẽ bị thu hồi bất cứ lúc nào nếu chính quyền điều hành đất nước không theo nguyện vọng, ý chí và lợi ích của dân5. Trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền (năm 1689), John Locke (1632 - 1704) tập trung làm rõ vấn đề quyền tự nhiên, khế ước xã hội và phân chia quyền lực, trong đó vấn đề hạn chế và kiểm soát quyền lực được đặt lên hàng đầu. Trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (năm 1748), Montesquieu (1689 - 1755) tin rằng hiến pháp là nền tảng của tự do khi nó là những cam kết bảo đảm quyền con người. Học thuyết chính trị của Montesquieu bao quát nhiều vấn đề từ bản chất của pháp luật, đến các hình thức chính quyền, phân chia quyền lực, địa chính trị…, nhưng quan trọng nhất là học thuyết phân chia quyền lực, được gọi là “tam quyền phân lập” (lập pháp, hành pháp, tư pháp), xem đó là yêu cầu tất yếu để kiểm soát quyền lực với ý tưởng căn bản: không có quyền lực nào không bị kiểm soát. Hiện nay, ở Việt Nam không chấp nhận “tam quyền phân lập” và “xã hội dân sự”. Tư tưởng pháp quyền của J.J. Russo, John Locke, Montesquieu và các nhà tư tưởng thời kỳ Ánh sáng đã góp phần không nhỏ vào cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 và Bộ luật Nhân quyền quốc tế hiện nay. Như vậy, “Rule of Law” là một nguyên tắc ứng xử trong xã hội, tinh thần pháp luật của xã hội công dân, chế độ pháp luật công bằng và tự nhiên để bảo đảm quyền con người và chủ quyền nhân dân, một sự cam kết mạnh mẽ giữa xã hội công dân và nhà nước để quy định phạm vi, giới hạn quyền lực nhà nước, một cách thức để kiểm soát quyền lực nhà nước. Cũng giống như Human Rights - Nhân quyền, “Rule of Law” không mang tính giai cấp và không nhằm tăng cường quyền lực nhà nước, ngược lại, Rule of Law giới hạn quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm các quyền và sự tự do cơ bản của con người theo nguyên tắc: nhà nước và cán bộ viên chức nhà nước chỉ được làm những việc pháp luật cho phép, công dân được làm tất cả những gì pháp luật không ngăn cấm. Pháp luật trong Rule of Law không phải là pháp luật do nhà nước đặt ra, mà phải là pháp luật tự thân, phản ánh những yêu cầu và quy luật tự nhiên, khách quan, các văn bản luật là sự ghi chép lại, phản ánh những quy tắc xử sự trong cuộc sống đòi hỏi phải có để điều chỉnh. Trong chế độ dân chủ, pháp luật trong “Rule of Law” là công cụ của tự do cho con người chứ không phải công cụ thống trị con người. Cốt lõi của “Rule of Law” là một xã hội công lý và nhân quyền, nhà nước chỉ là phương tiện, công cụ để thực hiện công lý, bình đẳng, tự do và nhân quyền. Điểm nổi bật của “Rule of Law” là pháp luật công bằng đối với tất cả mọi người, là công cụ của tự do chứ không phải công cụ thống trị, do đó luật trở thành tối thượng.
2. Bản thân “Rule of Law” không phải là một mô hình. Câu hỏi đặt ra là: liệu có thể xây dựng mô hình nhà nước dựa trên nguyên tắc pháp quyền Rule of Law hay không? Câu trả lời là có thể và rất cần thiết. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, đã có nhiều mô hình về lý thuyết và thực tiễn dựa trên nguyên tắc “Rule of Law” được đưa ra và áp dụng ở những mức độ nhất định. Trong cuốn sách Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Ngân hàng Thế giới (WB) đã khái quát một số mô hình như: Nhà nước thể chế, Nhà nước kỹ trị, Nhà nước phúc lợi, Nhà nước tương xứng với năng lực, Nhà nước viện trợ… Bên cạnh đó, Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra những yêu cầu cơ bản của “Rule of Law”: nhận thức lại vai trò của nhà nước trên toàn cầu, đó phải là nhà nước phục vụ chứ không phải là nhà nước cai trị; xây dựng lại thể chế đối với một nhà nước có năng lực; giảm thiểu và kiềm chế sự độc đoán, chuyên quyền của nhà nước và vấn nạn tham nhũng6…
Một trong những mô hình mới, nhận được sự ủng hộ của Liên hợp quốc, các thể chế tài chính quốc tế, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới đánh giá là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và ngày càng trở thành nguyên tắc mang tính phổ biến trong quản trị công đương đại là mô hình “Quản trị tốt và phòng, chống tham nhũng”. Mô hình này của “Rule of Law” hướng đến việc giảm thiểu điểm yếu căn bản, mang tính cố hữu của bộ máy nhà nước là lạm quyền và lợi dụng quyền lực để tham nhũng. Yêu cầu cốt lõi của mô hình này là các nguyên tắc pháp quyền “Rule of Law” phải được tôn trọng và thể hiện đầy đủ. Hội đồng châu Âu (EC) xem xét “quản trị tốt” dựa trên 5 tiêu chuẩn, đó là: sự tham gia rộng rãi của người dân và toàn xã hội (Public Participation); sự công khai trong tổ chức và hoạt động của nhà nước (Openness); trách nhiệm giải trình của nhà nước (Accountability); sự gắn kết và kiểm soát lẫn nhau trong tổ chức và hoạt động (Coherence); tính hiệu quả (Effectiveness)7. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của “Rule of Law” và Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng năm 2003. Đây cũng là Công ước mà Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên đưa ra sáng kiến và tham gia tích cực 7 vòng đàm phán.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, có nhiều mô hình nhà nước áp dụng nguyên tắc phục vụ nhân dân của Rule of Law với các thuật ngữ: Chính phủ mở (Open Government), Chính phủ số (Digital Government), Dân chủ trên không gian mạng (Teledemocracy)… Tại Việt Nam, tư tưởng xây dựng một chính phủ liêm chính, kiến thiết quốc gia và hành động phục vụ nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu và khởi xướng từ tháng 11/1946: “Chính phủ liêm khiết… Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà”8. Sau này, tư tưởng đó được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (nay là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) tiếp tục nhấn mạnh: “Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển và hành động phục vụ nhân dân”.
Thực tiễn cho thấy, dù theo mô hình nào thì các nguyên tắc pháp quyền “Rule of Law” cũng phải được thể hiện đầy đủ ngay trong quá trình hình thành và vận động của mô hình đó. Trong cuốn sách Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến tập hợp các công trình nghiên cứu của 23 học giả nước ngoài có uy tín đã đưa ra một số nội dung cơ bản nhất trong nguyên tắc pháp quyền Rule of Law9:
Một là, ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của chế độ pháp quyền trong quản trị quốc gia.3
Hai là, tính hợp hiến, hợp pháp và chính đáng của quyền lực nhà nước; giới hạn quyền lực nhà nước, hạn chế quyền lực nhà nước.
Ba là, pháp luật công bằng, thượng tôn pháp luật; tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm công lý.
Bốn là, phân công, phân quyền, kiềm chế, đối trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước.
Năm là, xác định quyền chính trị của người dân: bầu cử dân chủ, tư pháp độc lập, dân sự kiểm soát quân sự, tự do báo chí, bảo vệ quyền của thiểu số…
Sáu là, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của nhà nước kiểu mới, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, dân tộc. Đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước từng bước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội. Tư tưởng pháp quyền đã xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là xu thế tất yếu, khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Bản chất này của Nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các cương lĩnh, văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới, đặc biệt được thể chế hóa cụ thể trong Hiến pháp năm 2013: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trên phương diện lập hiến, Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách toàn diện những vấn đề căn cốt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bản chất, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động, chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước; phân quyền giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, vị trí của pháp luật đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam; vấn đề quyền con người, quyền công dân; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1. Chu Hồng Thanh: Quyền con người và Luật quốc tế về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 90.
2. Tuyên ngôn Thiên niên kỷ Liên hợp quốc năm 2000.
3. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Vécxây (diễn ra tại Pháp). Sau đó, Bản Yêu sách được Nguyễn Ái Quốc dịch ra tiếng Việt dưới thể thơ lục bát, phổ biến rộng rãi đến đồng bào trong nước với nhan đề “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó có hai câu thơ: “Bảy xin hiến pháp ban hành/Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” (xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 473). Với hai câu thơ trên, có thể xem Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một trong những người đầu tiên đặt ra khái niệm “pháp quyền” ở Việt Nam với nội dung thấm đẫm tư tưởng nhân quyền, dân quyền và chủ quyền nhân dân.
4. Thuật ngữ Rechtsstaat trong tiếng Đức - Nhà nước pháp quyền, lần đầu tiên được hai nhà triết học Đức là R.Ph. Môn và K.T. Vancơ nói đến, coi tính tối cao của luật là nguyên tắc hàng đầu, xem: GS, VS. Nguyễn Duy Quý, PGS, TS. Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên): Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 25. Hội nghị Trung ương 4 khóa XVIII (tháng 10/2014) của Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu chủ trương xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, xem: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Hội đồng Lý luận Trung ương, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 51.
5. J.J. Russo: Khế ước xã hội (bản tiếng Việt), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2015, tr. 20.
6. Ngân hàng Thế giới: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
7. Chu Hồng Thanh: Pháp luật về phòng, chống tham nhũng và đạo đức liêm chính luật gia Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2021, tr. 43.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 478.
9. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao: Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2012.
NGƯT, PGS, TS, Luật sư CHU HỒNG THANH
Nguyên Vụ trưởng Vụ pháp chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
nguyên Giảng viên Cao cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh