Xây dựng đồng bộ thể chế phát triển - Nhiệm vụ trọng tâm trong kỷ nguyên mới của dân tộc

CT&PT - Bài viết khẳng định thể chế là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của quốc gia, trong đó thể chế phù hợp tạo động lực, còn thể chế bất cập sẽ kìm hãm tiến bộ. Đại hội XIII của Đảng xác định hoàn thiện thể chế phát triển là một trong ba đột phá chiến lược; dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, yêu cầu xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm khơi thông, phát huy mọi nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững. Trong nhiệm kỳ qua, Việt Nam đạt nhiều kết quả: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện hơn; vai trò Nhà nước kiến tạo phát triển được khẳng định; tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, thể chế vẫn bộc lộ hạn chế như: tư duy pháp luật còn thiên về quản lý, pháp lý chồng chéo, phân cấp chưa rõ ràng, thể chế đổi mới sáng tạo chậm hoàn thiện. Bài viết đề xuất một số giải pháp đổi mới thể chế chính trị và kinh tế; hoàn thiện pháp luật; cải thiện môi trường kinh doanh; tinh gọn bộ máy; và đẩy mạnh hội nhập quốc tế, coi đây là đột phá chiến lược bảo đảm phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.

1. Thể chế phát triển

Thể chế là nhân tố quan trọng, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia nói chung hay trong từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội nói riêng. Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển, thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), thể chế là những quy tắc và tổ chức, bao gồm cả các chuẩn mực không chính thức, phối hợp hành vi con người. Hệ thống chuẩn mực không chính thức bao gồm cả lòng tin và các giá trị xã hội (trong đó có cả những chuẩn mực lâu đời chi phối các hành vi xã hội) đến các cơ chế và mạng lưới phối hợp không chính thức. Trong khi đó, hệ thống thể chế chính thức, bao gồm luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật khác, các thủ tục cũng như các chủ thể chịu trách nhiệm xây dựng, sửa đổi, giải thích và thi hành các luật lệ và quy chế đó1.

Thể chế là hệ thống các quy tắc, cơ chế và thiết chế được thiết lập nhằm bảo đảm hoạt động chính trị của Nhà nước và xã hội diễn ra đúng hướng, trong khuôn khổ trật tự và kỷ cương. Ở Việt Nam, thể chế được xây dựng trên nền tảng nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Các nguyên tắc này bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thể chế phát triển là hệ thống cấu trúc chủ trương, đường lối, luật pháp và quy định được hình thành bởi chủ thể quản trị quốc gia nhằm mục đích thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế, chính trị, xã hội và hội nhập quốc tế của quốc gia tương ứng với những thời kỳ lịch sử cụ thể2. Đối với Việt Nam, nền tảng bảo đảm sự vận hành của các thể chế thành phần nói trên bao gồm ba thành tố chính là hệ thống pháp luật và các quy định, chuẩn mực tạo thành hành lang pháp lý cho sự vận hành của các mối quan hệ con người trong xã hội; Tổ chức bộ máy và hoạt động của các chủ thể của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và nhân dân; Cơ chế vận hành tạo thành môi trường - “sân chơi” mà các chủ thể hoạt động. 

Thể chế phát triển có những nội dung và chức năng như: (1) Xác lập nền tảng pháp lý cho cấu trúc và cơ chế vận hành nền chính trị - kinh tế - xã hội của quốc gia; xác lập cơ chế phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; xác lập địa vị, vai trò, trách nhiệm, quyền và lợi ích của các chủ thể trong quá trình phát triển, nhất là vai trò của Nhà nước. (2) Đưa ra đường lối, chiến lược, mô hình, mục tiêu phát triển; xác định hệ giá trị phát triển; định hướng và điều tiết sự phát triển của xã hội phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan. (3) Xác lập mô hình và thể chế nhà nước, nền hành chính để thực thi quyền lực chính trị gắn với sự phát triển mọi mặt của xã hội; phòng ngừa và ngăn chặn sự suy thoái, tha hóa của quyền lực. (4) Tạo lập khung pháp lý và điều kiện để kiến tạo và phát triển năng lực các chủ thể, phát huy đúng vai trò của từng loại chủ thể; liên kết các chủ thể, các nguồn lực, các yếu tố theo những mô hình phát triển có hiệu quả; giúp cho mọi hoạt động của các chủ thể trở nên minh bạch hơn, tin cậy hơn, giảm thiểu “xung đột” trong quá trình tương tác với nhau. (5) Tạo lập cơ chế, chính sách huy động và phân bổ mọi nguồn lực cho sự phát triển; tạo động lực phát triển (động lực tinh thần, động lực pháp lý, động lực lợi ích, động lực đạo đức...), nhất là động lực cộng hưởng thông qua sự liên kết giữa các chủ thể và các yếu tố; điều tiết hài hòa lợi ích phát triển giữa các chủ thể. (6) Tạo lập “sân chơi” lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, phù hợp, hiệu quả đối với các chủ thể trong từng lĩnh vực. (7) Tạo lập khung khổ pháp lý phù hợp để hội nhập quốc tế có hiệu quả cao, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. (8) Tạo lập và thực thi cơ chế vận hành và kiểm soát thực thi thể chế có hiệu quả; khắc phục, phòng ngừa các rủi ro, tiêu cực.

Nhận thức được tầm quan trọng của thể chế đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển, xem đây là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Đại hội XIII của Đảng xác định hoàn thiện thể chế phát triển là một trong ba đột phá chiến lược, trong đó khẳng định: “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”3.

Trước những yêu cầu, đòi hỏi xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đã xác định xây dựng đồng bộ thể chế phát triển là nhiệm vụ trọng tâm mới và được xếp thứ nhất. Trong đó khẳng định: “Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, trọng tâm là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ kịp thời, dứt điểm các nút thắt, điểm nghẽn, bảo đảm sự đồng bộ, hài hòa giữa đổi mới, hoàn thiện thể chế trên mọi lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới”4. Dự thảo Báo cáo chính trị tiếp tục khẳng định đây là một trong ba đột phá chiến lược của nhiệm kỳ tới. Trong đó nhấn mạnh: “Đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, khơi thông, giải phóng mọi nguồn lực; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý, quản trị phát triển giữa Trung ương và địa phương, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương; thúc đẩy đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phục vụ, kiến tạo phát triển; thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp mới; phát triển lực lượng sản xuất mới, các mô hình, phương thức sản xuất kinh doanh mới”5. So với nhiệm kỳ Đại hội XIII, đột phá nêu trên đã bổ sung nội dung thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp mới; phát triển lực lượng sản xuất mới, các mô hình, phương thức sản xuất kinh doanh mới.

2. Thực trạng xây dựng thể chế phát triển ở Việt Nam

2.1. Kết quả đạt được

Trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, quán triệt, triển khai và đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống, Đảng đã lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh và bền vững. Những kết quả nổi bật đã đạt được, thể hiện trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước được xác lập, hoàn thiện. Đảng đã lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, hoàn thiện cơ bản các yếu tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Hệ thống luật pháp ngày càng được xây dựng đồng bộ và toàn diện, tạo cơ sở pháp lý cho thể chế kinh tế thị trường có thể vận hành. Từ Hiến pháp năm 2013 đến các bộ luật, luật chuyên ngành như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Cạnh tranh… đã tạo khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường vận hành theo các quy luật khách quan, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Quyền tự do kinh doanh được mở rộng, người dân và doanh nghiệp được “kinh doanh những gì pháp luật không cấm”, chuyển từ tư duy “xin - cho” sang tư duy “phục vụ, hỗ trợ”. Đây là bước tiến lớn trong tư duy thể chế. Cải cách hành chính được đẩy mạnh, các thủ tục về đăng ký doanh nghiệp, hải quan, thuế, bảo hiểm xã hội… được đơn giản hóa đáng kể. Nhiều dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4 đã được triển khai, góp phần giảm chi phí giao dịch, tăng tính minh bạch.

Thứ hai, vai trò Nhà nước kiến tạo phát triển được khẳng định. Nhà nước từng bước chuyển đổi chức năng, dần rút khỏi những hoạt động quản lý vi mô, tập trung vào hoạch định chiến lược, tạo lập môi trường cạnh tranh, xây dựng thể chế và đầu tư cho những lĩnh vực thiết yếu như giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ. Đầu tư hạ tầng cứng và hạ tầng số đạt nhiều tiến triển. Hệ thống đường cao tốc, cảng biển, sân bay, cùng với các nền tảng hạ tầng số (Cơ sở dữ liệu quốc gia, Chính phủ điện tử, Đề án 06 về dữ liệu công dân…) được triển khai đồng bộ. Đây chính là nền tảng để phát triển kinh tế số và xã hội số trong thời gian tới. Đảng, Nhà nước ta đã ban hành, triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để khuyến khích đổi mới sáng tạo. Hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia đang hình thành, với sự tham gia của nhiều quỹ đầu tư trong và ngoài nước, cùng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho startup và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội có những tiến triển vượt bậc. Tăng trưởng kinh tế ổn định, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6 - 7%/năm trong nhiều năm, thuộc nhóm cao trong khu vực. Xóa đói, giảm nghèo hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm mạnh, từ 9,88% năm 2015 xuống còn dưới 3% năm 2023. Việt Nam được quốc tế ghi nhận là điểm sáng trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng cao. Giáo dục phổ cập đạt thành tựu lớn; nhiều trường đại học Việt Nam đã có tên trong bảng xếp hạng khu vực và thế giới. Việt Nam cũng được đánh giá cao về chỉ số vốn con người (Human Capital Index). An sinh xã hội và phúc lợi đạt được nhiều tiến bộ. Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách đối với người có công, vùng sâu, vùng xa ngày càng mở rộng, góp phần giảm bất bình đẳng xã hội.

Thứ tư, hội nhập quốc tế sâu rộng gắn với hoàn thiện thể chế. Việt Nam đã tham gia nhiều cam kết quốc tế thúc đẩy đổi mới thể chế. Để tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA); Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Việt Nam đã điều chỉnh luật pháp và cơ chế quản lý để tiệm cận chuẩn mực quốc tế về sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng cao. Việt Nam liên tục cải thiện trong các bảng xếp hạng quốc tế, như: Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI), Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII). Không gian phát triển quốc gia được mở rộng. Quá trình hội nhập quốc tế giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, trở thành điểm đến của dòng vốn FDI trong các ngành công nghệ cao (điện tử, viễn thông, năng lượng tái tạo).

2.2. Những hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Thể chế phát triển vẫn còn những yếu tố chưa thông thoáng, thuận lợi để huy động được tối đa nguồn lực cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. “Thể chế phát triển vẫn còn những yếu tố chưa thông thoáng, thuận lợi để huy động được tối đa nguồn lự cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả, chưa tạo khung pháp lý đẩy đủ, toàn diện, thuận lợi để khơi thông nguồn lực trong dân và giải phóng sức sản xuất của nền kinh tế”6. Tư duy xây dựng pháp luật còn nặng về quản lý hơn là kiến tạo phát triển, nhất là đối với những vẫn đề, mô hình kinh tế mới; vẫn còn tư duy “quản được đến đâu thì mở đến đó”, “không quản được thì cấm”. Một số chính sách, pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu, chưa theo kịp với tình hình thực tiễn; còn tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong một số văn bản pháp luật; việc áp dụng pháp luật đôi khi thiếu thống nhất. Phân cấp, phân quyền chưa mạnh mẽ, chưa rõ trách nhiệm, còn nhiều vướng mắc; mức độ trao quyền cho địa phương còn thấp. Vẫn còn nhiều thủ tục hành chính không cần thiết; dịch vụ công trực tuyến cải thiện chậm, chưa thuận tiện, thông suốt.

Hệ thống pháp luật, quy định về các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... chậm được ban hành, hoàn thiện. Các thị trường lao động, khoa học công nghệ, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, đất đai, bất động sản còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Niềm tin thị trường của các nhà đầu tư, doanh nghiệp suy giảm. Một số lĩnh vực như đất đai, đầu tư, môi trường, đổi mới sáng tạo còn nhiều kẽ hở, dễ bị lợi dụng hoặc tạo ra rào cản cho phát triển. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương còn thiếu chặt chẽ, dẫn tới tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, “nói nhiều, làm ít”. Công tác giám sát, đánh giá chính sách chưa được coi trọng; chế tài xử lý vi phạm còn thiếu nghiêm minh. Thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp, nhiều tầng nấc trung gian, làm giảm năng lực cạnh tranh quốc gia. Thể chế khuyến khích đổi mới sáng tạo còn ở mức thấp, thiếu cơ chế bảo vệ, khuyến khích các ý tưởng mới, mô hình kinh doanh mới như: kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ. Tổ chức bộ máy và năng lực cán bộ trong quản trị phát triển còn bất cập. Chưa hội nhập sâu với chuẩn mực quốc tế về thể chế phát triển. Một số cam kết quốc tế về thương mại, đầu tư, môi trường... chậm được nội luật hóa.

3. Một số giải pháp nhằm xây dựng đồng bộ thể chế phát triển trong kỷ nguyên mới của dân tộc

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng xác định tập trung ưu tiên xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, đồng thời là một trong ba đột phá chiến lược của nhiệm kỳ tới. Yêu cầu đặt ra là cần có những giải pháp cụ thể, khả thi và hiệu quả để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị quan trọng này, góp phần bảo đảm thành công Đại hội XIV của Đảng. Đây là nội dung cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện trong quá trình hoàn chỉnh Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV.

Để đưa đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế bảo vệ môi trường sinh thái trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, đan xen nhiều cơ hội phát triển lớn gắn liền với không ít thách thức mới, iệc hoàn thiện thể chế phát triển đặt ra yêu cầu nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận cấu thành của thể chế: thể chế chính trị giữ vai trò định hướng “vượt trước”, tạo nền tảng và dẫn dắt sự phát triển của các lĩnh vực khác; thể chế kinh tế giữ vai trò trung tâm, trực tiếp tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển; thể chế xã hội giữ vai trò điều tiết, bảo đảm công bằng, ổn định và đồng thuận xã hội; thể chế bảo vệ môi trường sinh thái giữ vai trò bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững giữa con người với tự nhiên. Sự đúng đắn, hợp lý và đồng bộ giữa các yếu tố của thể chế phát triển là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị, bảo đảm “tính vượt trước”, tính định hướng dẫn đường đối với toàn bộ tiến trình phát triển đất nước. Trong đó, xác định rõ vai trò, chức năng, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong hoạch định và thực thi các chủ trương, chính sách phát triển. Đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của Việt Nam và yêu cầu hiện đại, hội nhập quốc tế, tạo môi trường thể chế thông thoáng, minh bạch, khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững. Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh và phúc lợi xã hội, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song song với quá trình đó là việc hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới mô hình phát triển hài hòa giữa con người và tự nhiên. Mọi hoạt động đổi mới và hoàn thiện thể chế cần gắn với nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và ý thức trách nhiệm của tất cả các chủ thể trong hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội, bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả và bền vững của thể chế phát triển quốc gia.

Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, ổn định và minh bạch. Cần xây dựng khung thể chế pháp lý ổn định, có tầm nhìn chiến lược và dự báo dài hạn, trong đó luật pháp phải được hoạch định trên cơ sở tầm nhìn nhiều thập kỷ, hạn chế sửa đổi chắp vá, tránh tình trạng “luật khung, luật ống” để tạo sự ổn định cho môi trường kinh doanh. Đơn giản hóa và minh bạch hóa quy định, loại bỏ quy định chồng chéo, mâu thuẫn; ban hành chính sách dễ hiểu, dễ thực hiện. Hoàn thiện pháp luật về đất đai, đầu tư, môi trường, kinh tế số nhằm thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính. Xây dựng cơ chế giám sát độc lập, xử lý nghiêm vi phạm trong thực thi công vụ. Tăng cường phối hợp liên ngành, liên vùng, khắc phục tình trạng cục bộ, chia cắt trong thực hiện chính sách; tạo sự liên thông đồng bộ giữa Trung ương - địa phương - doanh nghiệp - người dân. Đổi mới công tác đánh giá chính sách, thực hiện đánh giá tác động chính sách một cách khoa học, công khai, để điều chỉnh kịp thời những điểm bất cập.

Ba là, xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh không cần thiết, giảm thiểu chi phí không chính thức. Bảo đảm quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tạo dựng niềm tin và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư dài hạn. Phát triển thị trường vốn, thị trường khoa học - công nghệ, bổ sung kênh huy động vốn và tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo phát triển mạnh. Tạo động lực mới cho đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Xây dựng thể chế khuyến khích đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, phát triển mô hình kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, liên kết giữa viện nghiên cứu - trường đại học - doanh nghiệp - nhà nước, hướng tới hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tầm khu vực. Hoàn thiện thể chế bảo vệ môi trường, áp dụng các chuẩn mực quốc tế, gắn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với quá trình phát triển bền vững.

Bốn là, đẩy mạnh cải cách bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phân cấp rõ ràng. Xây dựng bộ máy quản trị phát triển theo hướng “kiến tạo - phục vụ - minh bạch” trong đó Nhà nước đóng vai trò định hướng chiến lược, kiến tạo thể chế, thúc đẩy và hỗ trợ chủ thể phát triển. Nâng cao năng lực hoạch định chính sách, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, am hiểu xu thế mới như chuyển đổi số, kinh tế xanh, an ninh phi truyền thống. Phát huy trách nhiệm giải trình, tăng cường công khai, minh bạch trong quản trị công, coi đây là nền tảng của niềm tin xã hội và động lực cải cách, thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước để minh bạch hóa thông tin, giảm thiểu tham nhũng, tiêu cực. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, báo chí và các tổ chức xã hội, bảo đảm sự tham gia rộng rãi, thực chất của xã hội trong quá trình hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách. Qua đó, hình thành nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, dân chủ và trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới.

Năm là, đẩy mạnh hội nhập toàn diện, sâu rộng với thể chế quốc tế và khu vực, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa hội nhập kinh tế với hoàn thiện thể chế phát triển trong nước. Nội luật hóa đầy đủ và kịp thời các cam kết quốc tế, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, RCEP, EVFTA). nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, minh bạch, tương thích với thông lệ quốc tế. Quá trình nội luật hóa không chỉ dừng lại ở việc “chuyển hóa” cam kết quốc tế vào hệ thống pháp luật trong nước, mà cần được thực hiện theo hướng thích ứng linh hoạt, chọn lọc, vừa bảo đảm thực thi nghiêm túc nghĩa vụ quốc tế, vừa giữ vững chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc. Song song với đó, cần tiếp thu và vận dụng có chọn lọc các chuẩn mực quản trị tiên tiến của thế giới, đặc biệt trong các lĩnh vực cốt lõi như quản trị kinh doanh, môi trường, sở hữu trí tuệ, chuyển đổi số, an ninh mạng và phát triển bền vững. Việc xây dựng thể chế quốc gia theo hướng tiệm cận chuẩn mực quốc tế giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần củng cố vị thế và uy tín của Việt Nam trong hệ thống kinh tế - chính trị toàn cầu. Trong bối cảnh cục diện quốc tế đang định hình lại sâu sắc, Việt Nam cần chủ động tham gia vào quá trình hoạch định và định hình “luật chơi” quốc tế, thay vì chỉ thụ động tiếp nhận. Hội nhập quốc tế sâu rộng, trên nền tảng độc lập, tự chủ và bản sắc quốc gia, sẽ là động lực quan trọng để thúc đẩy cải cách thể chế trong nước, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, và tạo thế - lực mới cho phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Tóm lại, xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển không chỉ là yêu cầu khách quan của tiến trình phát triển đất nước, mà còn là đột phá chiến lược để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI. Một hệ thống thể chế đồng bộ, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả là nền tảng quan trọng để củng cố niềm tin xã hội, khơi dậy động lực đổi mới sáng tạo, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng. Thành công trong cải cách thể chế chính là chìa khóa để bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững, kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và chủ động hội nhập quốc tế. Đây là định hướng có ý nghĩa chiến lược, tạo cơ sở để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động và thách thức hiện nay. Nội dung này cần được tiếp tục nghiên  cứu, bổ sung và hoàn thiện trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, nhằm cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ, hiện đại, hội nhập, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.


 1. Xem Ngân hàng Thế giới (WB): Báo cáo Phát triển Thế giới 2002: Xây dựng Thể chế hỗ trợ Thị trường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 7-8, https://documents1.worldbank.org/curated/en/580611468339090245/pdf/228250VIETNAME1pment0Report02002ocr.pdf.
  2. PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa: Thể chế phát triển - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr.28.
   3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 203.
  4,5,6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội đảng bộ các cấp), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025, tr. 48-49, 50, 142.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin