1. Khái quát về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Uy tín, vị thế cầm quyền của Đảng là tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nêu gương không chỉ là yêu cầu đạo đức, mà còn là phương thức lãnh đạo xuất phát từ bản chất khoa học và cách mạng của Đảng Cộng sản, bảo đảm sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa chủ trương, đường lối với thực tiễn tổ chức thực hiện.
Nêu gương là trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận chính trị, pháp lý, đạo đức gắn liền với tư cách đảng viên, thể hiện sự tiên phong, gương mẫu trong công tác và đời sống. Trách nhiệm này được đặt trong khuôn khổ các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời chịu trách nhiệm khi vi phạm hoặc để xảy ra vi phạm. Đây là tiêu chí đánh giá chất lượng, phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên, đồng thời khẳng định đạo đức, uy tín của Đảng cầm quyền.
Thời gian qua, Đảng đã ban hành các quy định về trách nhiệm nêu gương, như: Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy định số 137-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09/5/2024 của Ban Chấp hành Trung ương về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Việc ban hành các quy định này cho thấy trách nhiệm nêu gương đã từng bước được thể chế hóa, trở thành một phẩm chất của cán bộ, đảng viên. Theo đó, nội dung trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên thể hiện trên các phương diện sau:
Một là, về phẩm chất chính trị. Phẩm chất chính trị là nền tảng, là gốc của người cách mạng, quyết định bản chất của Đảng, sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, thời cơ và thách thức đan xen, nêu gương về phẩm chất chính trị được thể hiện ở bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên. Đó là sự kiên định đường lối đổi mới, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự thống nhất giữa nhận thức đúng đắn và hành động thực tiễn trong tuyên truyền và tổ chức thực hiện; kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Trong bối cảnh mới, phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên còn thể hiện yêu cầu về bản lĩnh, tinh thần đổi mới, sáng tạo, hội nhập, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đây là yêu cầu thể hiện vai trò tiên phong của cán bộ, đảng viên trên mặt trận tư tưởng chính trị.
Hai là, trách nhiệm nêu gương về phẩm chất đạo đức, lối sống và phong cách, tác phong công tác. Thể hiện ở việc thực hành và giữ gìn chuẩn mực đạo đức cách mạng; gương mẫu trong lối sống, giản dị, khiêm tốn, trung thực; chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi; đồng thời nêu gương trong phong cách làm việc khoa học, gần dân, tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, quan tâm chăm lo đời sống của nhân dân. Điều này đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải nêu gương về thực hành liêm chính, giữ gìn danh dự, lòng tự trọng trước những tác động tiêu cực, cám dỗ, “xây” đi đôi với “chống”, đồng thời, không để người khác lợi dụng vị trí của mình để trục lợi, thực hiện văn hóa từ chức khi không đủ khả năng, uy tín.
Ba là, trách nhiệm nêu gương về ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức pháp luật và thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Thể hiện ở sự tự giác, nghiêm túc trong chấp hành sự phân công, điều động của tổ chức; tuân thủ các quy chế, quy định của Đảng, của cơ quan, đơn vị và địa phương nơi cư trú; am hiểu và chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, thực hiện kỷ luật trong phát ngôn. Đồng thời, cán bộ, đảng viên phải nêu gương trong nhận thức và thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, coi đó là nghĩa vụ bắt buộc, là nền tảng bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.
Bốn là, trách nhiệm nêu gương trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Đây là nội dung trực tiếp phản ánh năng lực và trách nhiệm công vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trách nhiệm nêu gương được thể hiện ở sự tận tụy, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng và triển khai chương trình, kế hoạch phù hợp với yêu cầu thực tiễn; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm; chống lạm quyền, lợi ích nhóm, bè phái; chủ động chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức và nhân dân. Trách nhiệm nêu gương trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao còn thể hiện ở kết quả và trách nhiệm giải trình gắn với thẩm quyền, chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Năm là, trách nhiệm nêu gương trong sinh hoạt, đời sống xã hội và gia đình. Nội dung này thể hiện sự thống nhất giữa đời sống chính trị và đời sống thường ngày của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên gương mẫu về lối sống giản dị, tiết kiệm, hòa đồng với nhân dân nơi cư trú; chống xa hoa, lãng phí, quan liêu, xa rời nhân dân; giữ gìn uy tín cá nhân và danh dự của tổ chức đảng trong các mối quan hệ xã hội và gia đình. Đây là lĩnh vực thể hiện rõ nhất sự lan tỏa của nêu gương từ trong Đảng và hệ thống chính trị đến ngoài xã hội.
Như vậy, nội dung trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên thể hiện nghĩa vụ, bổn phận mà mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện, không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân mà xuất phát từ bản chất khoa học, cách mạng và yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng. Nêu gương của cán bộ, đảng viên phải được thể hiện trên nhiều phương diện, từ tiên phong, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, giữ gìn phẩm chất của người đảng viên, đến nêu gương trong thực hiện chức trách, quyền hạn, dám chịu trách nhiệm, chống những biểu hiện hình thức, nói không đi đôi với làm. Đồng thời, các quy định của Đảng đặt yêu cầu nêu gương trong mối liên hệ chặt chẽ với kỷ luật, kỷ cương và ranh giới “không được làm”, coi việc tự giác chấp hành và tự kiểm soát hành vi là một bộ phận cấu thành trách nhiệm nêu gương. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ cấp cao, trách nhiệm nêu gương được nâng lên thành yêu cầu nghiêm ngặt hơn, gắn với uy tín chính trị và hiệu lực lãnh đạo của tổ chức. Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương không chỉ dựa vào sự tự giác, mà còn được bảo đảm bằng cơ chế kiểm tra, giám sát trong tổ chức đảng, qua đó làm cho nêu gương trở thành tiêu chí quan trọng để đánh giá phẩm chất, năng lực và chất lượng cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.
2. Nội dung trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
Trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên không trình bày thành một mục riêng, mà lồng ghép trong các nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Điều này cho thấy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên là một yếu tố cấu thành quan trọng trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Một là, trách nhiệm nêu gương về phẩm chất chính trị. Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đánh giá tương đối đầy đủ, toàn diện việc thực hiện trách nhiệm nêu gương về phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên. Về kết quả, Dự thảo chỉ rõ: “Tuyệt đại đa số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên giữ vững lập trường tư tưởng chính trị; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới của Đảng”1. Điều này cho thấy trách nhiệm nêu gương về phẩm chất chính trị gắn với vị thế cầm quyền, uy tín chính trị của Đảng. Đồng thời, Dự thảo cũng chỉ rõ một số hạn chế liên quan đến trách nhiệm nêu gương về phẩm chất chính trị của cán bộ, đảng viên: “Một số cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng, hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”2; “một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao… không gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị… có biểu hiện đùn đẩy, né tránh, không dám làm, không dám đổi mới sáng tạo”3. Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương chưa thực sự trở thành ý thức tự giác, thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, cho thấy khoảng cách giữa quy định của Đảng và hoạt động của cán bộ, đảng viên trong thực tiễn. Từ đó, Dự thảo Báo cáo chính trị nhấn mạnh nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, thể hiện định hướng thực hiện trách nhiệm nêu gương về phẩm chất chính trị: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, vai trò nêu gương, tính chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược”4; “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên”5. Như vậy, Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng phản ánh tương đối toàn diện nội dung trách nhiệm nêu gương trong phẩm chất chính trị, song cũng đặt ra yêu cầu tiếp tục cụ thể hóa nội dung này thành những tiêu chí, chuẩn mực và cơ chế kiểm tra, giám sát rõ ràng hơn, để trách nhiệm nêu gương về phẩm chất chính trị thực sự trở thành thước đo quan trọng trong đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên và năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng.
Hai là, trách nhiệm nêu gương về đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong. Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng ghi nhận những chuyển biến tích cực trong thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên: “Cán bộ, đảng viên tích cực nêu cao tinh thần nêu gương “tự soi”, “tự sửa”, tính tiên phong, gương mẫu, danh dự, lòng tự trọng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích cực biểu dương điển hình tiên tiến, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc, xử lý nghiêm hành vi vi phạm đạo đức, lối sống”6. Kết quả này góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, Dự thảo cũng thẳng thắn chỉ rõ hạn chế: “Một số cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền nhận thức chưa sâu sắc, đầy đủ, vi phạm quy chế làm việc, các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ”7; “quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chưa được thực hiện thường xuyên, trở thành nếp sống của mỗi đảng viên. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút”8. Như vậy, Dự thảo đã phản ánh khá đầy đủ nội dung nêu gương về đạo đức, lối sống, song cần có các tiêu chí cụ thể để đánh giá, từng bước khắc phục tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm.
Ba là, trách nhiệm nêu gương về ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức pháp luật và thực hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đánh giá khá toàn diện về kết quả và hạn chế. Dự thảo Báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới chỉ rõ: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Tự phê bình và phê bình ở không ít tổ chức đảng chưa khắc phục được tình trạng hình thức, nể nang, né tránh, ngại va chạm”9. Báo cáo tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng tiếp tục khẳng định các biểu hiện tương tự trong sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; “tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi”10; một số đảng viên chưa nắm vững và chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng… Điều này cho thấy một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ qua cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật do vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vi phạm trách nhiệm nêu gương. Tính đến hết tháng 6/2025, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.360 đảng viên do tham nhũng, 313 đảng viên do vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập; hơn 29.500 đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm trách nhiệm nêu gương và những điều đảng viên không được làm. Trong đó, có 170 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, cả đương chức và đã nghỉ hưu11. Điều này cho thấy một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nêu gương về ý thức tổ chức kỷ luật. Từ đó, Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng yêu cầu kịp thời chấn chỉnh những hành vi thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên; kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu, tiên phong, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới12.
Bốn là, trách nhiệm nêu gương về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện rõ nét nội dung xây dựng Đảng về đạo đức. Dự thảo khẳng định: “Cấp ủy các cấp quan tâm, coi trọng việc xây dựng và phát huy tinh thần nêu gương của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và rèn luyện cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ trong công tác hằng ngày, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”13. Đặc biệt, trong bối cảnh thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên không chỉ thể hiện ở phương diện đạo đức, lối sống, mà còn là sự hy sinh lợi ích cá nhân, vì lợi ích chung của cách mạng. Trách nhiệm nêu gương về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao còn thể hiện ở sự xung kích trong hoạt động thực tiễn, khắc phục căn bệnh sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, Dự thảo Báo cáo chính trị nêu rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện đùn đẩy, né tránh, không dám làm, không dám đổi mới sáng tạo”14. Điều này cho thấy điểm nghẽn không chỉ là năng lực, mà còn là bản lĩnh, trách nhiệm trong thực thi chức trách. Từ đó, Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược, có tư duy, năng lực quản trị tiên tiến, phù hợp với mô hình tổ chức mới và yêu cầu phát triển bứt phá của đất nước. Dự thảo khẳng định chủ trương “khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Như vậy, trong giai đoạn mới, cán bộ hoàn thành nhiệm vụ ở mức “tròn vai” nhưng thiếu sự đột phá, sợ trách nhiệm, đùn đẩy công việc sẽ bị coi là chưa thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương. Thước đo của sự nêu gương trong thực thi công vụ không dừng lại ở quá trình mà phải được minh chứng bằng “sản phẩm cụ thể”, hiệu quả thực tế đóng góp cho sự phát triển của địa phương, đơn vị.
Năm là, trách nhiệm nêu gương trong sinh hoạt, đời sống xã hội và gia đình. Nội dung này cũng không được trình bày thành một mục riêng trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng mà thể hiện trong nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân. Dự thảo Văn kiện yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gần dân, trọng dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là phương diện quan trọng thể hiện đạo đức, lối sống và uy tín của cán bộ trong đời sống xã hội.
Như vậy, mặc dù nội dung trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng không được trình bày một cách hệ thống theo từng nội dung, nhưng đều đánh giá đầy đủ kết quả, hạn chế về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trên từng phương diện. Dự thảo xác định nêu gương là một trong những yếu tố góp phần tạo nên thành tựu và là bài học kinh nghiệm trong xây dựng Đảng cầm quyền: “Nâng cao trách nhiệm, vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu”15. Điểm đáng chú ý là Dự thảo đã đặt nội dung nêu gương trong phạm vi công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đây là bước phát triển về nhận thức so với các nhiệm kỳ trước, thể hiện rõ quan điểm: nêu gương không tách rời cơ chế ràng buộc trách nhiệm và xử lý vi phạm. Nhìn tổng thể, Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đều thống nhất khẳng định vai trò đặc biệt của nêu gương trong xây dựng Đảng, song mức độ cụ thể hóa và cách thức thể hiện còn khác nhau, chưa tạo thành một chỉnh thể hệ thống, xuyên suốt và đồng bộ về nội dung, phương thức và cơ chế đánh giá trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
3. Một số góp ý hoàn thiện nội dung về trách nhiệm nêu gương trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, để trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trở thành nền nếp, thường xuyên, cần có sự thống nhất về cách tiếp cận, nội dung, cơ chế đánh giá bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi trong tổ chức thực hiện.
Thứ nhất, thống nhất cách tiếp cận trách nhiệm nêu gương là nghĩa vụ chính trị bắt buộc. Nêu gương được xác định là trách nhiệm chính trị, pháp lý và đạo đức, gắn với bản chất của người cộng sản. Vì vậy, sử dụng thuật ngữ “tinh thần nêu gương”16 không thể hiện được tính chất nghĩa vụ, trách nhiệm bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; mức độ phân hóa trách nhiệm nêu gương theo vị trí, chức vụ, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu chưa thật rõ ràng, chưa phản ánh đầy đủ yêu cầu hành động, trách nhiệm và nghĩa vụ bắt buộc của cán bộ, đảng viên trong thực tiễn lãnh đạo, quản lý. Do đó, cần thống nhất cách tiếp cận trách nhiệm nêu gương là yêu cầu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi cá nhân. Cần thống nhất sử dụng các cụm từ như “trách nhiệm nêu gương”, “thực hiện trách nhiệm nêu gương” trong toàn bộ Dự thảo, góp phần làm rõ yêu cầu về hành động và nghĩa vụ chính trị của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, cần thể hiện rõ trách nhiệm nêu gương. Theo đó, bổ sung quy định trách nhiệm nêu gương theo hướng cán bộ giữ chức vụ càng cao thì yêu cầu nêu gương càng nghiêm ngặt, toàn diện và cụ thể hơn, coi đây là tiêu chí bắt buộc trong công tác cán bộ. Cách tiếp cận này phù hợp với tinh thần của các quy định hiện hành của Đảng về trách nhiệm nêu gương và kiểm soát quyền lực.
Thứ hai, hoàn thiện nội dung trách nhiệm nêu gương. Trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu rộng và yêu cầu ngày càng cao về minh bạch, trách nhiệm giải trình, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên cần được mở rộng cả về phạm vi và phương thức thể hiện. Nêu gương không chỉ giới hạn trong Đảng, mà còn thể hiện ngoài xã hội, trên môi trường số và trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân. Nêu gương cũng không thể chỉ dừng ở việc nêu cao yêu cầu đạo đức, mà phải được thể chế hóa bằng các cơ chế cụ thể: công khai, minh bạch trong thực thi quyền lực; tăng cường kiểm tra, giám sát; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trách nhiệm nêu gương. Dự thảo Báo cáo tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng đã chỉ ra những hạn chế trong thực hiện kỷ luật, kỷ cương, đây chính là căn cứ thực tiễn quan trọng để bổ sung nội dung này vào Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Cần bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa ba Văn kiện về nội dung trách nhiệm nêu gương, từ nhận thức lý luận, đánh giá thực tiễn đến định hướng giải pháp. Vì vậy, cần bổ sung và làm rõ nội dung trách nhiệm nêu gương gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực, công khai, minh bạch trong thực thi công vụ và trách nhiệm giải trình. Cần bổ sung nội dung trách nhiệm nêu gương trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Lãng phí được xác định là một trong những nguy cơ lớn, gây tổn hại nghiêm trọng đến nguồn lực phát triển của đất nước, không kém phần nguy hại so với tham nhũng. Do đó, người đứng đầu càng phải gương mẫu trong việc sử dụng tài sản công, ngân sách nhà nước, kiên quyết cắt giảm các thủ tục hành chính gây lãng phí thời gian, nguồn lực của xã hội. Việc bổ sung, hoàn thiện nội dung trách nhiệm nêu gương không chỉ nhằm nâng cao chất lượng Văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng, mà còn góp phần quan trọng vào việc xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò Đảng cầm quyền trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Thứ ba, cụ thể hóa tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương và chế tài xử lý cán bộ vi phạm trách nhiệm nêu gương. Một trong những nguyên nhân của việc thực hiện trách nhiệm nêu gương chưa trở thành nền nếp, thường xuyên là do chưa có cơ chế rõ ràng, thiếu tiêu chí cụ thể để đánh giá kết quả thực hiện và chế tài chưa đủ sức răn đe. Thực tiễn cho thấy, không ít cán bộ chỉ dừng lại ở “thủ thế”, “thủ thân”, thiếu đổi mới sáng tạo, thậm chí né tránh trách nhiệm, đùn đẩy công việc. Vì vậy, cần bổ sung nội dung tiêu chí đánh giá việc thực hiện trách nhiệm nêu gương gắn với sản phẩm cụ thể, góp phần khắc phục tình trạng một bộ phận cán bộ thụ động, thiếu đổi mới, đột phá, sáng tạo. Trách nhiệm nêu gương cần được lượng hóa thông qua hiệu quả công việc, mức độ đổi mới sáng tạo, khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Việc đánh giá phải dựa trên kết quả và tác động đối với sự phát triển của xã hội. Cần bổ sung chế tài xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm trách nhiệm nêu gương, kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm trách nhiệm nêu gương.
4. Kết luận
Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Việc xác định và thực hiện trách nhiệm nêu gương là một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tác động trực tiếp đến uy tín, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Vì vậy, một số góp ý về trách nhiệm nêu gương trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng là cơ sở để thực hiện trong toàn Đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, tạo động lực tinh thần to lớn, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới.
1, 10. Dự thảo báo cáo tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng (2011 - 2025) và đề xuất, định hướng bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng, https://chinhphu.vn, ngày 15/10/2025.
2, 6, 7, 11, 12. Phụ lục 5 về tổng kết công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII và phương hướng, nhiệm vụ giải pháp công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIV, https://chinhphu.vn, ngày 15/10/2025.
3, 4. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, https://chinhphu.vn, ngày 15/10/2025.
5, 8, 9, 13, 15, 16. Dự thảo báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, https://chinhphu.vn, ngày 15/10/2025
14. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, https://chinhphu.vn, ngày 15/10/2025.