1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên không còn là một khái niệm trừu tượng, phản ánh một số hiện tượng mang tính cá biệt, mà nó được biểu hiện cụ thể trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, thậm chí là cán bộ cấp cao. Nó thể hiện ở sự dao động, phai nhạt lý tưởng, mất niềm tin vào Đảng và chế độ, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực. Bàn về vấn đề này, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII thẳng thắn chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””1.
Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh một cách nghiêm túc và sáng tạo. Tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh xem xét, lý giải trong mối quan hệ mật thiết với sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Theo Người: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”2. Do đó, trong tư tưởng của Người, đạo đức không phải là đạo đức chung chung mà là đạo đức cách mạng, đạo đức gắn với cuộc đấu tranh vì mục tiêu và lý tưởng cách mạng, bắt nguồn từnhững yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Nền đạo đức mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng và dày công vun đắp là nền đạo đức mới, gắn bó hữu cơ với chế độ xã hội mới, với nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên trước hết thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng cách mạng: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”3. Đó còn là bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng của người cán bộ, đảng viên: “đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”4. Đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên còn thể hiện ở động cơ, thái độ trách nhiệm trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó khăn đến mấy cũng kiên quyết làm đúng đường lối và nghị quyết của Đảng, gương mẫu để quần chúng noi theo. Đó còn là phương pháp, tác phong công tác của người cán bộ, đảng viên: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”5. Có thể nói, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên không chỉ là điểm mấu chốt, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, mà còn là nhân tố quan trọng hàng đầu, là sức mạnh to lớn, góp phần lôi cuốn, cổ vũ mạnh mẽ quần chúng nhân dân trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng. Quần chúng nhân dân tự nguyện đi theo Đảng không chỉ vì Đảng có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, mà còn vì Đảng ta có đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Yêu cầu về sự gương mẫu, tiên phong trước quần chúng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, có nhiều người không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng nên không ngừng trưởng thành, tiến bộ; song, cũng có một số cán bộ, đảng viên không giữ vững đạo đức cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến thoái hóa, biến chất. Người phân tích và làm rõ sự khác nhau giữa lợi ích cá nhân chân chính và chủ nghĩa cá nhân, từ đó Người chỉ ra sự đối lập giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa cá nhân, đồng thời khẳng định chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không đội trời chung với chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm: bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật6,... Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù trên thế giới, đánh thắng thực dân và phong kiến là kẻ thù trong nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân. Đối với cán bộ, đảng viên, sự suy thoái về đạo đức cách mạng là khởi nguồn dẫn đến sự suy thoái về mọi mặt. Khi chủ nghĩa cá nhân mới “chớm nở” mà không ngăn ngừa, đấu tranh, khắc phục ngay, thì “Dần dần tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút; họ quên rằng tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng” . Ngại rèn luyện, phấn đấu, lười suy nghĩ, lười học tập là nguyên nhân trực tiếp khiến cán bộ, đảng viên trở nên lạc hậu, “lỗi thời” về suy nghĩ, quan điểm, tư duy. Khi chí hướng và lòng dạ thay đổi thì những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy được chỉ nhằm phục vụ cho mục đích cá nhân, chính điều đó sẽ gây nguy hại lớn cho sự nghiệp cách mạng.
2. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu rõ rằng: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ tới lợi ích của mình trước hết, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định: sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, hành vi tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng và rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, không làm tròn trách nhiệm và bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình không được thực hiện nghiêm túc. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể, thực hiện không nghiêm. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn lỏng lẻo. Việc đánh giá, xếp loại, sử dụng, bố trí cán bộ chưa thực chất, còn nể nang, cục bộ. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa được coi trọng đúng mức, chậm đổi mới, kém hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa thường xuyên, không nghiêm túc. Chưa phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò của nhân dân trong giám sát, phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
Trước tình trạng trên, để chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, khắc phục hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên, cần có giải pháp đồng bộ, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Cụ thể là:
Một là, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi trọng và tiến hành có hiệu quả các biện pháp giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong việc ngăn chặn, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân.
Hai là, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn liền với các hoạt động tuyên truyền, giáo dục; kịp thời biểu dương gương người tốt, việc tốt, những điển hình trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Ba là, kiên quyết đấu tranh với sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân.
Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng. Các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình trước Đảngvà trước nhân dân, tự giác, gương mẫu thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức và cá nhân, cá nhân và tổ chức, để vừa đề cao tính tích cực chủ động, tự giác của cá nhân, vừa phát huy tốt vai trò của tổ chức với quy trình chặt chẽ, nội dung thống nhất, khoa học. Trên cơ sở quy định chặt chẽ, nội dung cụ thể, tiêu chí rõ ràng, nhất là hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực”, từng cấp ủy, chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu phải chủ động đối chiếu với bản thân để tự liên hệ, kiểm điểm, thấy rõ những ưu điểm và hạn chế, từ đó có kế hoạch nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyến điểm. Đó cũng là quá trình đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa mặt tốt và mặt xấu trong mỗi tổ chức, mỗi con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ raMuốn vậy, cần phải dựa vào mặt tốt, đề cao tính tích cực, tự giác của mỗi người để đấu tranh, từng bước đẩy lùi cái chưa tốt, cái tiêu cực, “phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” .
Song, để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao, bên cạnh việc đề cao tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, cần phát huy tốt vai trò của các tổ chức, thông qua các biện pháp mang tính bắt buộc với những quy định chặt chẽ mà Trung ương đã bổ sung, làm rõ và ban hành.. Đối với những trường hợp sai phạm, phải kiên quyết xử lý nghiêm minh theo điều lệ, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Sáu là, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần có chương trình tổng thể, lộ trình khoa học để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, động viên sự nỗ lực sáng tạo của các tổ chức, các lực lượng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Trên cơ sở đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt, cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền cần điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch đội ngũ cán bộ các cấp; có kế hoạch luân chuyển, điều động, cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ một cách khách quan; đồng thời, kiên quyết cho thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với những cán bộ thiếu uy tín, phẩm chất, năng lực không tương xứng. Cấp ủy các cấp và các cơ quan chức năng cần tăng cường nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý và sử dụng cán bộ, bảo đảm phù hợp với điều kiện mới; xây dựng, hoàn thiện quy chế, quy định về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, giữa tuyên truyền, giáo dục chính trị với công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát…
Bảy là, khơi dậy truyền thống trọng đạo lý của dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành dư luận mạnh mẽ và rộng khắp để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và kiên quyết đấu tranh với sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong nội bộ, của một số cán bộ, đảng viên như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”. Từ đó, tạo thành sức mạnh tổng hợp, tạo sự chuyển biến rõ nét trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng, từng bước hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
1 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 92.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 284.
6. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 295.
3, 4, 5, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 603, 606, 609, 605.
8, 9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672, 547.
PGS, TS. DƯƠNG QUANG HIỂN
ThS. NGUYỄN VĂN HÙNG
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự