Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kế thừa truyền thống của dân tộc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách, nhằm khơi dậy, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1.
Trong bối cảnh hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những nhiệm vụ nặng nề song rất đỗi vẻ vang. Đảng ta chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”2.
Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chính trị - xã hội được ổn định, tăng cường các hoạt động đối ngoại, bảo đảm giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, chúng ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, đó là sự tác động của suy thoái kinh tế, tài chính, những tiêu cực trong xã hội, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo..., ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân.
Quan điểm về xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là sự kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, thể hiện tập trung ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là, Đảng ta xác định rõ mục tiêu phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”3.
Hai là, Đảng tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược trong xây dựng đất nước thời kỳ mới. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu làm nên những thắng lợi của cách mạng cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là quan điểm, chủ trương lớn cần được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nỗ lực củng cố, tăng cường trong chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam. “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”4. Mối quan hệ giữa kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một tất yếu khách quan, vấn đề mang tính quy luật, đồng thời là yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước giai đoạn mới.
Qua đó cho thấy, Đảng ta đã xác định rõ, đầy đủ, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại và những vấn đề đặt ra, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng ta quyết định những vấn đề đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”5. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó dự báo, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải chung sức, đồng lòng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Theo đó, cần tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi để khơi dậy tài năng, trí tuệ, phẩm chất, giá trị, sức mạnh con người Việt Nam; có cơ chế đào tạo, trọng dụng nhân tài; khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Thứ hai, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, khuyến khích, tạo điều kiện để đồng bào ta ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tăng cường công tác giáo dục truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ thông qua các biện pháp như: cụ thể hóa các chính sách và phong trào thi đua yêu nước với hình thức, nội dung phong phú trên tất cả các lĩnh vực; không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, kêu gọi thông thường, mà phải hướng dẫn các hành động cụ thể; chú trọng đổi mới phương pháp dạy và học, kiểm tra, đánh giá các môn học trong nhà trường, đặc biệt là môn lịch sử, giáo dục công dân; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực gắn với việc làm hằng ngày của mỗi người dân.
Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, việc xây dựng và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng - ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhằm phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định, cần chú trọng đặc biệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đặc biệt quan trọng. Đảng ta chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6. Do đó, cần thường xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội”7.
Năm là, giải quyết tốt các mối quan hệ, thu hẹp sự khác biệt giữa các bộ phận xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo đó, cần tập trung giải quyết các mối quan hệ dân tộc, tôn giáo, mối quan hệ với người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong quan hệ dân tộc, Đảng ta xác định rõ, cần bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, đồng thời chống kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong quan hệ tôn giáo, Đảng ta nhấn mạnh phải vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng ta khẳng định đây là một bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải “Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút quyền lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”8. Việc giải quyết tốt các mối quan hệ này không chỉ trực tiếp góp phần củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà còn là cơ sở đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta.
Sáu là, tăng cường xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần quan tâm, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo hướng gần dân, chăm lo cho nhân dân; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, giữ vững độc lập, tự chủ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; phát huy ý chí tự cường dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn, vững chắc trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
t. 7, tr. 38.
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 109, 14, 110-111, 50, 173, 172, 171.
TS. NGUYỄN THỊ NGUYỆT ÁNH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh