1. Thực trạng pháp luật và tổ chức hoạt động giám định tư pháp hiện nay
Ngày 20/6/2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật Giám định tư pháp năm 2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013. Căn cứ tình hình thực tiễn trong hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp, Quốc hội khóa XIV đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp vào các năm 2018 và 2020, nhằm đáp ứng yêu cầu mới của công tác điều tra, truy tố, xét xử trong bối cảnh cải cách tư pháp.
Sau 13 năm triển khai thực hiện, Luật Giám định tư pháp đã tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc để tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức giám định tư pháp tiếp tục đi vào ổn định, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trong điều tra, khám phá tội phạm, góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, bảo đảm an toàn pháp lý cho công dân trong các quan hệ pháp luật mà họ tham gia.
Thứ nhất, tổ chức giám định tư pháp công lập được củng cố và kiện toàn.
Hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập, đặc biệt là các đơn vị giám định chuyên trách trong ba lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự đã từng bước được củng cố, kiện toàn và hoàn thiện. Các Bộ, ngành chủ quản ngày càng quan tâm đầu tư, bảo đảm điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị cho hoạt động giám định.
Trong lĩnh vực pháp y, Viện Pháp y quốc gia đã thành lập Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Pháp y Quân đội được kiện toàn, bổ sung biên chế theo quy định của toàn quân năm 2013, lực lượng pháp y Công an nhân dân được bổ sung, tăng cường mạnh mẽ. Đến tháng 10/2025, 34/34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được thành lập Trung tâm pháp y cấp tỉnh, tạo mạng lưới pháp y đồng bộ, đáp ứng yêu cầu điều tra, truy tố và xét xử trên phạm vi cả nước.
Đối với pháp y tâm thần, hệ thống tổ chức được sắp xếp lại theo hướng tập trung, chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của hoạt động tố tụng. Ngoài Viện Pháp y tâm thần Trung ương, các Trung tâm pháp y tâm thần khu vực đã được thành lập và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần bảo đảm tính khách quan, kịp thời của công tác giám định trong lĩnh vực này.
Về giám định kỹ thuật hình sự, hệ thống tổ chức tiếp tục được củng cố và phát triển, trong đó Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an đã thành lập Phòng Giám định kỹ thuật số và điện tử và Phân viện tại Đà Nẵng. Phòng Giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng và Văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cũng được thành lập, bổ sung biên chế phù hợp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ hai, các tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc và Văn phòng giám định tư pháp được củng cố, phát triển.
Các tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc trong các lĩnh vực tài chính, thuế, ngân hàng, xây dựng, thông tin và truyền thông đã từng bước được quan tâm và củng cố, mở rộng và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã chủ động chủ động chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện để các tổ chức này đi vào hoạt động ổn định, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tố tụng. Đến nay, trên phạm vi cả nước đã có khoảng hơn 200 tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc được thành lập và công bố, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn, xác định, trưng cầu tổ chức giám định phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng, tính khách quan và hiệu quả của kết luận giám định.
Văn phòng giám định tư pháp là loại hình tổ chức giám định tư pháp mới, hoạt động theo mô hình xã hội hóa do giám định viên tư pháp có đủ điều kiện chuyên môn, năng lực và uy tín thành lập và hoạt động trong 06 lĩnh vực: tài chính, xây dựng, ngân hàng, cổ vật, di vật và bản quyền tác giả. Đến nay, cả nước có hai Văn phòng giám định tư pháp được thành lập và đi vào hoạt động là Văn phòng giám định tư pháp Sài Gòn, hoạt động trong lĩnh vực tài chính và Văn phòng giám định tư pháp Đoàn Nguyên Bình tại tỉnh Cà Mau. Sự ra đời của các văn phòng này không chỉ mở rộng cơ chế xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức, cá nhân, qua đó nâng cao tính linh hoạt, hiệu quả và chất lượng của hoạt động giám định trong thực tiễn.
Thứ ba, đội ngũ người giám định tư pháp được củng cố và không ngừng phát triển.
Hiện nay, tổng số giám định viên tư pháp trong toàn quốc là hơn 6.000 người, trong đó số người giám định tư pháp theo vụ việc được lựa chọn, công bố là hơn 1.600 người, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực xây dựng, tài chính, ngân hàng, tài nguyên, môi trường, giao thông, vận tải.
Đội ngũ giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc có sự phát triển ngày càng nhanh về cả số lượng và chất lượng. Tất cả giám định viên tư pháp được bổ nhiệm đều có trình độ đại học trở lên, đối với giám định viên pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự phải có chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giám định trước khi bổ nhiệm chức danh. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho đội ngũ người giám định tư pháp được các Bộ chủ quản và địa phương quan tâm đặc biệt quan tâm.
2. Một số hạn chế, bất cập trong quy định và thực tiễn thi hành pháp luật về giám định tư pháp
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, song quá trình thi hành Luật Giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn công tác giám định trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
Thứ nhất, hạn chế trong tổ chức giám định tư pháp công lập.
Theo quy định của Luật Giám định tư pháp, tổ chức giám định pháp y được hình thành trong cả ba hệ thống: ngành y tế, Công an và Quân đội. Tuy nhiên, tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hiện tồn tại song song Trung tâm pháp y là tổ chức giám định tư pháp công lập tiến hành công tác giám định pháp y tử thi, vừa có giám định viên pháp y tử thi ở Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an cấp tỉnh. Điều này dẫn đến sự trùng lặp, chồng chéo nhất định về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền giữa hai lực lượng này. Một số lĩnh vực có nhu cầu giám định ngày càng cao như tài chính, ngân hàng, xây dựng nhưng không có tổ chức giám định đầu mối chuyên trách dẫn đến việc trưng cầu giám định gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, hạn chế trong quy định về phạm vi lĩnh vực cho phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp.
Theo quy định của Luật Giám định tư pháp hiện hành, Văn phòng giám định tư pháp đượ phép thành lập ở các lĩnh vực: tài chính, xây dựng, ngân hàng và ba chuyên ngành của lĩnh vực văn hóa là cổ vật, di vật và bản quyền tác giả. Tuy nhiên, đến nay, cả nước mới chỉ có 2 Văn phòng giám định tư pháp được thành lập. Những lĩnh vực được phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp có nhu cầu giám định tăng về số lượng nhưng chưa lớn, chưa thường xuyên, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, dẫn đến không đủ việc cho Văn phòng giám định tư pháp hoạt động theo cơ chế trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó, nhiều lĩnh vực có nhu cầu giám định lớn, thường xuyên, cần cho phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp như: giám định tài liệu, giám định ADN, giám định số khung, số máy... chưa được thể chế hóa. Các lĩnh vực được phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp như hiện nay còn hẹp, chưa tương xứng với yêu cầu của thực tiễn, vì vậy, cần có sự nghiên cứu, điều chỉnh và mở rộng hợp lý để phát huy tiềm năng xã hội hóa, huy động nguồn lực của các tổ chức, cá nhân có năng lực chuyên môn tham gia hoạt động giám định tư pháp, qua đó nâng cao hiệu quả và tính linh hoạt của công tác giám định trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, hạn chế trong hoạt động trưng cầu giám định và thực hiện trưng cầu giám định.
Nhiều lĩnh vực giám định ở các địa phương chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực chuyên môn để thực hiện một số loại giám định phức tạp như: giám định ma túy tổng hợp, giám định vật liệu nổ, giám định về tài chính,... do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng thường phải trưng cầu tổ chức giám định ở Trung ương, gây quá tải cho tổ chức giám định và kéo dài thời gianthực hiện, ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án.
Các cơ quan tiến hành tố tụng chưa hướng đến trưng cầu các tổ chức chuyên môn có năng lực ở khu vực ngoài nhà nước nên chưa cân đối trong trưng cầu giám định, một số trường hợp cơ quan trưng cầu không cung cấp đủ thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện trưng cầu nên việc bổ sung hồ sơ làm kéo dài thời hạn thực hiện giám định.
Chất lượng kết luận giám định trong một số trường hợp còn hạn chế: nội dung kết luận còn chung chung, không đầy đủ, rõ ràng, có sự khác nhau giữa các kết luận giám định về cùng một vấn đề được trưng cầu, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đánh giá, sử dụng kết quả giám định làm chứng cứ. Còn tình trạng chưa thống nhất về nhận thức, quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về việc cần hay không cần trưng cầu giám định để làm rõ bản chất của vụ án hình sự hoặc phải trưng cầu giám định nhiều lần, ở nhiều cấp, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án và làm giảm tính kịp thời, hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp.
Thứ tư, hạn chế trong chế độ đãi ngộ đối với tổ chức và người giám định tư pháp.
Hiện nay, giám định viên tư pháp trong ba lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp hệ số 0,3/mức lương cơ sở/tháng theo quy định tại Thông tư số 02/2009/TT-BTP ngày 17/9/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định tư pháp; giám định viên pháp y, pháp y tâm thần được hưởng chế độ ưu đãi nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập theo quy định của Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập. Ngoài ra, Bộ Công an có chính sách hỗ trợ cán bộ làm công tác pháp y trong lực lượng Công an nhân dân được kéo dài thời gian công tác, hưởng trợ cấp tiền lương, tiêu chuẩn nghỉ dưỡng và phụ cấp độc hại. Một số tỉnh, thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Lâm Đồng, Hà Nội, Thừa Thiên Huế,... đã ban hành chính sách hỗ trợ tài chính, thu hút cho đội ngũ người làm giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý.
Tuy nhiên, các quy định về chế độ đãi ngộ đối với tổ chức và người giám định tư pháp được ban hành đã lâu, chủ yếu ra đời trước khi Luật Giám định tư pháp được thông qua và chưa được sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh kịp thời để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay dẫn đến tình trạng chế độ đãi ngộ đối với người giám định tư pháp còn thấp so với tính chất, mức độ đặc thù, nguy hiểm, độc hại của công việc này, chưa đáp ứng được mức sống, mức sinh hoạt của đội ngũ người giám định tư pháp trong cả nước, chưa thu hút được đông đảo người được đào tạo cơ bản, có trình độ, năng lực tham gia làm công tác giám định tư pháp. Một số lĩnh vực như ngân hàng, tài chính vẫn còn tình trạng nhiều vụ việc chưa được chi trả kịp thời hoặc khó khăn trong việc xác định, thống nhất về tổng chi phí cần thiết và hợp lý cho việc thực hiện giám định. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản khiến các Văn phòng giám định tư pháp gặp khó khăn về cơ chế tài chính, hoạt động chưa hiệu lực, hiệu quả. Chưa có cơ chế rõ tràng về chi phí cần thiết để chi trả cho người giám định tư pháp tham dự phiên tòa, gây khó khăn cho tổ chức, người giám định tư pháp được triệu tập để tham dự phiên tòa.
3. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về giám định tư pháp trong giai đoạn hiện nay
Nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về giám định tư pháp phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, hướng tới xây dựng pháp luật về giám định tư pháp ngày càng hoàn chỉnh, đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của tổ chức và người giám định tư pháp, cần triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, hoàn thiện quy định về tổ chức giám định tư pháp công lập.
Cần phân định rõ ràng thẩm quyền, chức năng và phạm vi hoạt động của các tổ chức giám định pháp y thuộc ngành y tế, Công an và Quân đội, nhất là tại cấp tỉnh. Việc phân định này phải dựa trên tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp và đặc thù của các vụ án, vụ việc như: các vụ án có dấu hiệu của tội giết người, vụ cháy, đuối nước hoặc những vụ có số lượng tử thi lớn; đồng thời, cần xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của giám định viên pháp y tử thi thuộc Trung tâm pháp y cấp tỉnh và giám định viên pháp y tử thi thuộc Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an cấp tỉnh, nhằm tránh trùng lặp, chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ. . Trên cơ sở đó, cần nghiên cứu, ban hành quy chế phối hợp giữa các tổ chức pháp y, giữa giám định viên pháp y tử thi thuộc Trung tâm pháp y và Công an cấp tỉnh trong công tác giám định tư pháp, tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ, thống nhất, đầy đủ, đồng bộ trong hoạt động giám định trên phạm vi cả nước, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác giám định tư pháp trong thực tiễn.
Hai là, hoàn thiện quy định về phạm vi lĩnh vực cho phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp.
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn,cần nghiên cứu mở rộng phạm vi xã hội hóa giám định tư pháp theo hướng cho phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp ở một số lĩnh vực, chuyên ngành giám định thực sự có nhu cầu lớn, thường xuyên như: giám định dấu vết tài liệu, giám định ADN, giám định số khung, số máy... để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của các đương sự trong các vụ án, vụ việc dân sự, hành chính và một số cơ quan nhà nước như thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho giám định tư pháp, bảo đảm đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu giám định tư pháp của hoạt động tố tụng trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, giảm gánh nặng cho đầu tư của Nhà nước.
Ba là, hoàn thiện quy định về trưng cầu giám định và thực hiện trưng cầu giám định.
Cần khẩn trương bổ sung quy định về thời hạn thực hiện giám định cụ thể đối với từng loại việc giám định trong quy trình giám định nhằmbảo đảm tính đồng bộ, tương thích với quy định của pháp luật tố tụng, đặc biệt là khắc phục tình trạng chậm trễ trong tiếp nhận, thực hiện giám định trong thời gian qua, gây ảnh hưởng đến tiến độ xử lý các vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế. Đồng thời, cần bổ sung một số quy định về căn cứ, trình tự, cách thức trưng cầu giám định, đánh giá, sử dụng kết luận của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trưng cầu giám định để khắc phục những tồn tại hiện nay về giám định tư pháp mà nguyên nhân xuất phát từ chính các cơ quan tố tụng, nhất là tình trạng lạm dụng giám định tư pháp để gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử.
Bổ sung các quy định mang tính phân cấp trong tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định ở cấp Trung ương và cấp tỉnh để khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trong tiếp nhận và thực hiện giám định ở nhiều địa phương và Bộ, ngành chủ quản. Mở rộng phạm vi hoạt động giám định tư pháp thông qua việc sửa đổi, mở rộng quyền tự yêu cầu giám định của người tham gia tố tụng để bảo đảm điều kiện, phương tiện tìm kiếm chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi tham gia tố tụng theo tinh thần mở rộng dân chủ, tăng cường tranh tụng tại tòa án, góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch và khách quan của hoạt động giám định tư pháp trong hệ thống tư pháp Việt Nam.
Bốn là, hoàn thiện quy định về chế độ đãi ngộ đối với tổ chức và người giám định tư pháp.
Bộ Tư pháp cần chủ trì, tham mưu Chính phủ ban hành quy định mới về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức làm việc trong lĩnh vực giám định tư pháp tại các cơ sở y tế công lập. Đồng thời, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu và trực tiếp ban hành quy định về chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định tư pháp, bảo đảm tương xứng với tính chất đặc thù, độ phức tạp và mức độ nguy hhieemr của nghề, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, Sở Tư pháp và Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chủ động tham mưu cho Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách thu hút nhân lực cho người làm công tác giám định tư pháp, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của từng địa phương. Nghiên cứu, ban hành quy định về thời hạn chi trả, mức chi trả đối với các vụ án, vụ việc trưng cầu giám định tư pháp, nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thể chế hóa việc người giám định tư pháp tham dự phiên tòa, ban hành văn bản quy định về mức chi phí tối thiểu để chi trả cho người giám định tư pháp tham dự phiên tòa, quy định rõ mức chi phí tối thiểu, nguồn chi và trình tự chi trả, qua đó bảo đảm điều kiện để người giám định thực hiện đầy đủ nghĩa vụ pháp lý khi được triệu tập.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, việc hoàn thiện quy định của pháp luật về giám định tư pháp theo hướng đồng bộ, thống nhất, phù hợp với đặc thù từng lĩnh vực và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như từng địa phương là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và chất lượng hoạt động giám định tư pháp, bảo đảm cho chính sách pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.