Cán bộ là “gốc” của mọi công việc và cán bộ là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng - đó là bài học rút ra từ lịch sử. Tuy nhiên, mỗi chặng đường cách mạng lại đòi hỏi ở đội ngũ cán bộ những năng lực cụ thể, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Khi toàn cầu hóa là quá trình khách quan và Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, tất yếu đội ngũ cán bộ phải tích cực đóng góp cho quá trình đó. Vì thế, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế trở thành trọng tâm của công tác cán bộ ở mọi cơ quan, tổ chức cũng như trong toàn hệ thống chính trị.
1. Các yếu tố thúc đẩy sự cần thiết xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế
Nói tới “môi trường quốc tế” là nói tới không gian có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức của các nước mà ở đó, từng chủ thể hoạt động (quốc gia, doanh nghiệp, cá nhân...) cần thể hiện năng lực cạnh tranh, bản sắc của mình nhằm tạo ra sự hợp tác có lợi. Môi trường làm việc quốc tế luôn có sự đan xen giữa hợp tác - cạnh tranh - đấu tranh, giữa lợi ích chung - riêng của các chủ thể. Nếu “năng lực” là tổ hợp những phẩm chất, trình độ, kỹ năng tạo cho con người khả năng hoàn thành công việc với chất lượng tối ưu thì “năng lực làm việc trong môi trường quốc tế” là những phẩm chất, trình độ, kỹ năng bảo đảm cho chủ thể hoạt động một cách hiệu quả khi thực hiện những nhiệm vụ được giao trong quá trình hợp tác với đối tác nước ngoài. Yêu cầu cần thiết xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố.
Thứ nhất, do quá trình toàn cầu hóa sâu rộng mà Việt Nam đã và đang tích cực, chủ động tham gia. Toàn cầu hóa là xu thế khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã vượt qua biên giới quốc gia, khu vực. Đối với Việt Nam, khi lợi thế của “ba dòng thác cách mạng” không còn thì toàn cầu hóa mở ra cơ hội hợp tác rộng rãi. Nhận thức rõ sự cần thiết phải chủ động hội nhập quốc tế, Đảng ta đã chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia, trong đó có 30 nước là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện. Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của nhiều tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO và nhiều tổ chức quốc tế khác. Việt Nam đã tích cực tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác và hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên minh châu Âu (PCA), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)...
Chủ trương gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng đã tạo ra môi trường mang tính quốc tế ngày càng sâu sắc, có tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống đất nước. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới: Không chỉ đi công tác nước ngoài mà ngay khi hoạt động trong nước, đội ngũ cán bộ cũng cần có năng lực làm việc với các đối tác nước ngoài.
Thứ hai, xuất phát từ chủ trương nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của Đảng. Công tác cán bộ là vấn đề “then chốt của then chốt”, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII của Đảng ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm tạo ra bước chuyển căn bản và toàn diện trong công tác cán bộ. Sau hơn 20 năm thực hiện, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận: “Nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh”1. Một trong những điểm “chưa mạnh” là phần lớn cán bộ chưa có đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế.
Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII của Đảng ban hành Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Trong đó, yêu cầu về năng lực làm việc quốc tế của đội ngũ cán bộ các cấp đến năm 2030 được xác định cụ thể: Đối với cán bộ cấp chiến lược, từ 40% đến 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương, từ 50% đến 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương, từ 25-35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế2.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”3. Vì thế, “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế”4 là bước đi tất yếu để phục vụ cho mục tiêu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ ba, xuất phát từ mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”5. Khi hợp tác quốc tế đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước, để hiện thực hóa khát vọng đứng vào hàng ngũ các nước phát triển vào năm 2045, Việt Nam cần có đội ngũ cán bộ tiệm cận với chuẩn mực quốc tế và không ngừng vươn lên cùng nhịp độ phát triển của thế giới.
Thứ tư, do hạn chế về năng lực làm việc quốc tế của đội ngũ cán bộ hiện nay. Khi tài nguyên vật chất ngày càng cạn kiệt, quốc gia nào muốn phát triển cũng phải phát huy cao độ “tài nguyên con người”. Đội ngũ cán bộ các cấp là lực lượng trọng yếu, lãnh trách nhiệm tiên phong trong tiến trình hội nhập, do đó càng cần phải thể hiện vai trò to lớn của mình.
Tuy nhiên, thực trạng khá phổ biến hiện nay là, nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp dù có nhiều bằng cấp, chứng chỉ nhưng mới chỉ để “chuẩn hóa” chức danh về mặt hình thức; việc ứng dụng, vận dụng các kiến thức, kỹ năng trong thực tế về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học và các kỹ năng để có thể tự tin làm việc độc lập trong môi trường quốc tế còn rất khiêm tốn. Không ít cán bộ chưa am hiểu luật pháp, tình hình quốc tế nên khi tiến hành đàm phán, nhất là các dự án kinh tế, Việt Nam thường bị thua thiệt. Khi đóng vai trò tham mưu thì cán bộ chưa đưa ra được dự báo hay phương hướng, giải pháp xác đúng. Nghị quyết 26-NQ/TW của Đảng thẳng thẳn nhìn nhận: “Nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc của cán bộ trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế”6. Khiếm khuyết đó đã làm Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng của hợp tác quốc tế; thế mạnh của đất nước và con người Việt Nam chưa được quảng bá sâu rộng trên môi trường quốc tế.
Sự chuyển giao giữa các thế hệ trong đội ngũ cán bộ hiện nay cũng yêu cầu phải nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế để tạo nền nếp, chuẩn mực về tiêu chí cán bộ và công tác đào tạo cán bộ trong tương lai.
Bối cảnh quốc tế với những diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay cũng đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có đủ năng lực dự báo tình hình và thích ứng với mọi tình huống, kể cả các tình huống bất thường.
2. Phẩm chất, năng lực của cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế
Việc nhận diện, xác định tiêu chí cần có của cán bộ khi làm việc trong môi trường quốc tế chính là cơ sở để thiết kế các chương trình đào tạo cán bộ, là căn cứ để mỗi cơ quan, đơn vị đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý. “Làm việc trong môi trường quốc tế” là các hoạt động tương tác giữa những cá nhân, tổ chức thuộc nhiều quốc gia với sự đa dạng về tộc người, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ những phẩm chất, năng lực, kỹ năng, thể hiện chủ yếu qua các tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, người cán bộ phải có tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng và đạo đức cách mạng trong sáng
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, người cách mạng phải “Giữ chủ nghĩa cho vững”7 nhưng làm việc trong môi trường quốc tế - nơi có sự va chạm về lợi ích, ý thức hệ, vốn văn hóa và sự hiện diện của không ít thế lực thù địch, thông tin nhiều chiều thì tư tưởng, lập trường chính trị của người cán bộ càng trở nên quan trọng. Người cán bộ nhất thiết phải nắm chắc và vững tin vào chủ trương, đường lối, chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là quan điểm của Đảng về đối tác và đối tượng, về hợp tác và đấu tranh, về kiên định lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc, về hòa nhập mà không hòa tan, về giữ vững quyền độc lập, tự chủ và bản sắc văn hóa dân tộc, về trách nhiệm với cộng đồng quốc tế... Cán bộ tuyệt đối không được dao động trước các thông tin xấu độc hay sự cám dỗ về lợi ích, sự mua chuộc, đe dọa của các thế lực thù địch. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ đều phải trung thành với định hướng xã hội chủ nghĩa và tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng.
Cán bộ phải có lối sống cần, kiệm để không bị cám dỗ, mua chuộc, “lóa mắt” trước các điều kiện vật chất xa hoa. Đạo đức - thành tố cơ bản tạo nên nhân cách con người, không chỉ ngăn chặn người cán bộ khỏi sự tha hóa trước những hư vinh, cạm bẫy và tiếp sức để họ vượt lên chủ nghĩa cá nhân, giữ vững một lòng trung hiếu với dân, với nước mà còn tạo ra sức cảm hóa, thuyết phục, chinh phục đối với đối tác và đối tượng quốc tế mà họ tiếp xúc.
Thứ hai, người cán bộ phải có vốn văn hóa, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, nắm vững luật pháp quốc tế, làm chủ ngoại ngữ và kỹ năng tin học thiết yếu.
Làm việc trong môi trường quốc tế tất yếu diễn ra sự “cọ xát” văn hóa và sự chia sẻ các giá trị văn hóa. Vì thế, trước hết người cán bộ phải đứng vững trên nền tảng văn hóa dân tộc, thẩm thấu bản sắc văn hóa dân tộc để có sức mạnh nội sinh, không bị “choáng ngợp” trước những cái mới lạ, dẫn đến tư tưởng vọng ngoại hay tâm lý tự ti dân tộc. Ngược lại, vốn văn hóa dân tộc sâu sắc, sự thấm nhuần các giá trị minh triết của ông cha phải trở thành “vốn đối ứng” để trên cơ sở đó, người cán bộ chủ động khai thác, tiếp thu giá trị của các nền văn hóa khác và quảng bá văn hóa, tâm hồn người Việt Nam ra thế giới.
Đặc biệt, cốt cách được tạo dựng trên nền tảng bản sắc văn hóa dân tộc sẽ trở thành “thẻ căn cước” độc đáo, giúp họ trở nên hấp dẫn đối với những người xuất thân từ các nền văn hóa khác. Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 19/5/2018 khi xác định chủ trương nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ đã nhấn mạnh giải pháp phải “chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc”8.
Người cán bộ cần có hiểu biết về văn hóa của đối tác để kiến tạo điểm tương đồng, giảm thiểu điểm khác biệt, tạo ra sự tin tưởng, hòa hợp trên tinh thần khoan dung văn hóa, không kỳ thị với những gì khác mình, đồng thời tạo sự hài hòa khi đề cập đến các vấn đề nhạy cảm, như thể chế chính trị, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tín ngưỡng... của các đối tác quốc tế cùng làm việc.
Môi trường làm việc quốc tế có sự cạnh tranh lớn về trình độ chuyên môn giữa đại diện của giới tinh hoa các nước. Muốn có tiếng nói trong môi trường này, người cán bộ phải là chuyên gia trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn, qua đó nâng cao uy tín cá nhân, năng lực cạnh tranh quốc gia. Khi có trình độ, kiến thức chuyên môn vững, người cán bộ dễ dàng nhận diện điểm mạnh, điểm yếu của các bên tham gia, từ đó lựa chọn đối tác, lộ trình, phương pháp hợp tác phù hợp, cũng như cách thức ứng phó với các thách thức, rủi ro nảy sinh trong quá trình hợp tác. Ở những lĩnh vực mới, người cán bộ cần nỗ lực kịp thời nắm bắt.
Người cán bộ cần am hiểu những kiến thức cơ bản về luật pháp quốc tế, đặc biệt là luật thương mại, đầu tư, thuế khóa và quy trình giải quyết tranh chấp, từ đó có thể nắm rõ thể chế, thiết chế của các quốc gia, các tổ chức quốc tế.
Làm chủ một hay nhiều ngoại ngữ thông dụng là điều kiện không thể thiếu giúp cán bộ hiểu rõ thông điệp của đối tác và nêu được quan điểm cá nhân trong quá trình làm việc. Việc thông thạo ngôn ngữ, văn hóa còn mang lại cho đối tác thiện cảm, sự nể trọng về “tầm cỡ” của người đối thoại. Điều đó giúp cán bộ xử lý công việc nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Trong kỷ nguyên số, tin học, nền tảng kỹ thuật số là cầu nối cho việc tương tác và tiếp cận kiến thức mà không bị giới hạn về không gian, thời gian. Quá trình chuyển đổi số quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ cũng đòi hỏi người cán bộ phải thành thạo kỹ năng tin học cơ bản để có thể bảo đảm tiến độ công việc của phương thức làm việc hiện đại.
Thứ ba, người cán bộ cần có phong cách làm việc chuyên nghiệp
Môi trường làm việc quốc tế có tính kỷ luật cao, với những nguyên tắc, thông lệ phổ quát. Vì thế, người cán bộ phải chú trọng rèn luyện phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, như: luôn đúng giờ, giữ vững kế hoạch cam kết, thích ứng với cường độ lao động cao, áp lực và có năng lực giải quyết các vấn đề nảy sinh độc lập, nhanh chóng, tối ưu.
Việc nắm vững các “kỹ năng mềm” cũng là yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế. Thực tế cho thấy, trong rất nhiều tình huống, các “kỹ năng mềm” đóng vai trò quyết định thành công hay thất bại của họ. Do vậy, cán bộ cần chú trọng trang bị cho mình các kỹ năng: kỹ năng ứng xử; kỹ năng làm việc độc lập; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng thuyết trình, đàm phán; kỹ năng xử lý khủng hoảng; kỹ năng phát ngôn trên môi trường mạng xã hội; kỹ năng trả lời phỏng vấn; kỹ năng chủ trì hội nghị, hội thảo quốc tế... Trong các kỹ năng đó, kỹ năng ứng xử đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì nó tác động đến không khí làm việc và thái độ của đối tác.
Làm việc trong môi trường quốc tế tất yếu phải nắm vững kỹ năng, nghệ thuật đàm phán, thương lượng trên cơ sở chia sẻ các giá trị chung, tôn trọng lợi ích các bên. Là đại diện, “sứ giả” của dân tộc, họ cần có kỹ năng quảng bá những giá trị của văn hóa dân tộc, vị thế, tiềm năng của đất nước.
3. Giải pháp nâng cao năng lực làm việc đáp ứng môi trường quốc tế của cán bộ
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc đào tạo cán bộ đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đảng ta luôn khẳng định, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”9. Do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và địa phương cần quán triệt và tổ chức triển khai định hướng đó của Đảng bằng những chương trình, kế hoạch cụ thể. Trong đó, “khâu” quan trọng nhất chính là đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Sự nhận thức về tầm quan trọng của công tác đào tạo cán bộ đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn làm việc quốc tế phải đủ sâu, đủ rộng để biến thành các hành động thiết thực. Đó là đưa Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế thành một nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo cán bộ nói chung. Đó là tranh thủ mọi cơ hội, tạo điều kiện tối đa để cán bộ các cấp được trải nghiệm trong môi trường làm việc quốc tế. Đó là khuyến khích và dành cho cán bộ thời gian học tập chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng với sự quy định rõ ràng về mốc thời hạn phải hoàn thành...
Hai là, đổi mới công tác cán bộ. Việc đổi mới cần tập trung hướng đến khuyến khích đi đôi với ràng buộc trách nhiệm của cán bộ trong việc tự học, tự tiếp cận với cái mới để đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Sau khi được tạo điều kiện và đến mốc thời gian cam kết mà cán bộ vẫn không thể làm việc trong môi trường quốc tế thì buộc phải thay thế bằng việc lựa chọn nhân sự tốt hơn.
Cần có cơ chế thu hút, tuyển dụng những sinh viên tốt nghiệp loại xuất sắc, những trí thức, nhà khoa học, doanh nhân giỏi... ở nước ngoài về phục vụ đất nước. Những người đã thích ứng với môi trường làm việc quốc tế nếu được sử dụng, trọng dụng hợp lý sẽ không chỉ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam mà còn tạo ra sự lan tỏa tích cực, giúp các cán bộ khác làm quen, thích nghi với lối làm việc theo quy chuẩn quốc tế.
Ba là, phát huy vai trò của người đứng đầu đối với việc nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 được thông qua tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã nhấn mạnh: “Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách nhiệm, triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ”10.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị có vai trò quan trọng, quyết định công tác cán bộ nói chung và công tác đào tạo cán bộ trong môi trường làm việc quốc tế nói riêng. Họ cần xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng cán bộ trong đơn vị của mình với mục tiêu, lộ trình, yêu cầu sát hợp dành cho từng nhóm đối tượng cán bộ. Người đứng đầu phải coi việc rèn luyện năng lực làm việc trong môi trường quốc tế là một tiêu chí quan trọng để đánh giá cán bộ và gắn kết quả đạt được với công tác thi đua - khen thưởng hằng năm. Đồng thời, họ cũng phải là tấm gương trong nỗ lực học tập, rèn luyện để cán bộ của mình noi theo.
Hiện nay Bộ Chính trị đang chủ trương bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước qua “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 - 2030” và Kết luận số 39-KL/TW ngày 18/7/2022. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị khi triển khai Chương trình này cần cùng với tập thể có sự khách quan, minh bạch lựa chọn, đề cử những cán bộ xứng đáng đi học tập.
Bốn là, đổi mới chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong nước và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về việc đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế
Nhân cách con người được định hình từ sớm nên nếu không chú trọng giáo dục phổ thông thì không dễ gì có được đội ngũ cán bộ chất lượng cao. Vì thế, cần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục để hình thành nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới với phẩm chất yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Đổi mới nội dung và phương pháp trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Về nội dung, cần đổi mới chương trình bồi dưỡng theo hướng xây dựng khung chương trình, nội dung giảng dạy về tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng góp phần củng cố tư tưởng, lập trường cho người học; bổ sung các nội dung về kiến thức chuyên ngành, trình độ ngoại ngữ, tin học có tính cập nhật, hiện đại; chú trọng xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng “mềm”, đặc biệt là kiến thức về luật pháp quốc tế.
Về phương pháp, cần chú trọng các phương pháp giảng dạy hiện đại như: phát hiện vấn đề, cách thức xử lý tình huống, đóng vai, thi biện luận, phản biện, hỏi và đáp... để gắn kết lý thuyết với thực hành. Chất lượng bồi dưỡng, giáo dục luôn gắn chặt với chất lượng của đội ngũ huấn luyện nên cần thu hút các giảng viên có kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế và sử dụng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, báo cáo viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều kinh nghiệm, các chuyên gia đầu ngành về quan hệ quốc tế...
Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Giải pháp này cần thực hiện theo cả hai hướng là lựa chọn đối tác có uy tín để gửi cán bộ Việt Nam sang đào tạo và nghiên cứu, vận dụng một cách phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Việt Nam. Cần tạo cơ hội cho cán bộ tham gia các hội thảo, tọa đàm, trao đổi học thuật, chuyên môn để cán bộ có điều kiện tích lũy kiến thức, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Năm là, đổi mới chính sách tiền lương để cán bộ yên tâm trau dồi năng lực làm việc trong môi trường quốc tế và ngăn chặn tình trạng “chảy máu chất xám”. Ở nước ta, do đội ngũ cán bộ hưởng lương từ ngân sách nhà nước đông nhưng hiệu suất lao động còn thấp, vấn nạn tham nhũng, lãng phí còn trầm kha nên tất yếu là chế độ tiền lương của cán bộ còn thấp. Việc thu hút, “giữ chân” cán bộ, công chức, viên chức có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, do đó, gặp nhiều khó khăn. Vì thế, cải cách tiền lương theo vị trí việc làm, tăng chế độ đãi ngộ chính là tạo một điều kiện cơ bản là “không cần tham nhũng”, làm cho cán bộ yên tâm trau dồi phẩm chất, năng lực làm việc và ngăn chặn “làn sóng” cán bộ có năng lực trong hệ thống chính trị nghỉ việc, “đầu quân” cho khối doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
Mỗi thời đại đều đào tạo, rèn luyện nên “hình mẫu con người phù hợp”. Tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đầu tư cho con người, cho cán bộ là đầu tư cho sự phát triển bền vững, nên đường lối chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng càng thúc đẩy yêu cầu phải nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ tiệm cận với chuẩn mực quốc tế. Lúc này, toàn hệ thống chính trị phải chung tay đào tạo ra đội ngũ “nhân lực toàn cầu”, đội ngũ “chuyên gia toàn cầu” nhưng có tâm hồn Việt, tinh thần Việt vì đó chính là “bệ phóng” để đưa dân tộc Việt Nam tiến bước cùng thời đại.
1, 6, 8, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47, 47, 61, 67.
2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 58-59.
3, 4, 5, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 117-118, 135-136, 112, 164.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 280.
Theo Tạp chí Lý luận chính trị
Kiều Trang tổng hợp