CT&PT - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nó phản ánh tính quy luật vì trong mọi nhà nước dân chủ đều thể hiện rõ vai trò chi phối của đảng chính trị trong hầu hết các hoạt động và tổ chức của nhà nước và nó phản ánh điều kiện chính trị trong nước. Đảng Cộng sản Việt Nam có quá trình gắn bó máu thịt với nhân dân, với dân tộc qua cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò lãnh đạo của Đảng được cả dân tộc thừa nhận và suy tôn.
1. Những thành tựu
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng đã đề ra định hướng chính trị đúng đắn cho hoạt động của Nhà nước. Đồng thời, Đảng lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này.
Thứ hai, chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nâng cao. Tình trạng Đảng bao biện làm thay Nhà nước đã giảm đáng kể. Tăng cường dân chủ hoá phương thức lãnh đạo của Đảng có bước tiến quan trọng đã làm vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững và tăng cường, đồng thời phát huy tốt vai trò của Nhà nước, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng. Vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm tốt hơn.
Thứ ba, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng với các thiết chế trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng đầy đủ, rõ ràng hơn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân.
* Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
Thời gian qua, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội đã từng bước được đổi mới và cụ thể hóa trong nhiều nghị quyết của Đảng, trong quy chế lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và trong thực tiễn thực hiện quan hệ, lề lối làm việc của ban lãnh đạo Đảng đối với Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, như Quyết định số 42-QĐ/TW ngày 14/11/1992 của Bộ Chính trị về việc thành lập Đảng đoàn Quốc hội; Quyết định số 223-QĐ/TW ngày 15/5/2009 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế về quan hệ công tác giữa Đảng đoàn Quốc hội với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, tổ đảng các đoàn đại biểu Quốc hội, các ban Trung ương Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy và các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương…
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội: Đảng lãnh đạo, định hướng hoạt động lập hiến, lập pháp; việc xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ; việc ban hành các đạo luật và pháp lệnh. Đảng thông qua các nghị quyết của mình để lãnh đạo, định hướng hoạt động lập pháp về nội dung và chương trình, kế hoạch.
Đảng còn lãnh đạo Quốc hội trong hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện chức năng giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Nội dung cơ bản của lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng giám sát đó là lãnh đạo, chỉ đạo việc khắc phục những thiếu sót của quản lý nhà nước do giám sát phát hiện ra. Giám sát tối cao của Quốc hội chủ yếu tập trung giám sát ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước, nhất là giám sát Chính phủ. Vì thế, giám sát tối cao muốn nâng cao hiệu lực và hiệu quả, thì hậu quả pháp lý của nó phải là các nghị quyết, trong đó xác định trách nhiệm của tổ chức và cá nhân là nội dung quan trọng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội đã bảo đảm các yêu cầu sau:
Bảo đảm dân chủ trong hoạt động của Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân cả nước; Phát huy được vị trí của Quốc hội với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc: QLNN là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước; Lãnh đạo thông qua các chủ trương, chính sách, định hướng lớn để làm cơ sở cho Quốc hội tiến hành các hoạt động của mình nhằm thực hiện chức năng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; Lãnh đạo quá trình xây dựng và tổ chức Quốc hội; Lãnh đạo thông qua Đảng đoàn và các đảng viên là đại biểu Quốc hội.
Thực tiễn cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng trong suốt 13 nhiệm kỳ Quốc hội chỉ nhằm đạt đến mục tiêu: Quốc hội thật sự đại biểu cho lợi ích của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là xác định đúng vai trò, vị trí của Quốc hội, đề ra định hướng cơ bản, phát huy dân chủ, vai trò chủ động sáng tạo và tạo điều kiện thuận lợi để Quốc hội làm tốt công tác xây dựng pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội thể hiện ở việc xây dựng đường lối chiến lược, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu làm cơ sở, định hướng để Quốc hội thảo luận, quyết định. Vì thế, hoạt động của Quốc hội ngày càng chất lượng, thực chất và thu hút sự quan tâm ngày càng rộng rãi của dư luận xã hội. Hoạt động lập pháp đã kịp thời thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng và bao quát hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các chủ trương, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực kinh tế đã tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hợp tác đầu tư, nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế1.
* Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ
Đảng đã có những bước tiến quan trọng trong việc đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ. Sự đổi mới đó đã góp phần đảm bảo sự phù hợp với vị trí và trách nhiệm của Đảng cầm quyền cũng như phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ là cơ quan công quyền, vừa tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Chính phủ, giảm bớt, tiến tới xóa bỏ tình trạng Đảng bao biện, làm thay, “lấn sân” Chính phủ. Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn để chỉ đạo, định hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật, chứ Đảng không làm thay Chính phủ. Đảng cũng không quyết định những chủ trương cụ thể thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi quản lý của Chính phủ. Cụ thể:
* Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở Việt Nam đối với Chính phủ có bước phát triển đáng kể. Nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thể hiện ngày càng rõ tinh thần đổi mới nội dung, phạm vi, cách thức thực hiện sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trước hết là ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Chính phủ. Sự chuyển biến này là sản phẩm của sự đổi mới tư duy và nhận thức của những người lãnh đạo cấp cao về chế độ dân chủ ở nước ta, về quyền làm chủ của dân, về chức năng và quyền lực của Nhà nước, vai trò và hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
* Vị trí, vai trò của Chính phủ trong mối quan hệ với Đảng Cộng sản ở Việt Nam cũng có nhiều đổi mới theo hướng tích cực, gắn liền với quá trình đổi mới tư duy của đất nước. Chính phủ được trao nhiều quyền hạn và tính chủ động hơn. Hay nói cách khác, tính độc lập của Chính phủ đã được tăng cường. Chính phủ là người điều hành vĩ mô, giám sát và kiểm tra, bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Chính phủ có vai trò và trách nhiệm làm cho cấp chính quyền nào cũng thực hiện đúng trách nhiệm và thẩm quyền, tạo sức mạnh chung cho toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước. Chính phủ, các bộ tập trung vào thực hiện chức năng xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, chính sách quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện.
* Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ được áp dụng phù hợp với đặc điểm của đối tượng được lãnh đạo và phù hợp với từng giai đoạn, thể hiện2:
+ Đảng định hướng công tác xây dựng thể chế, xây dựng dự kiến Chương trình xây dựng pháp luật.
Trong lĩnh vực hoạch định chính sách, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ là đề ra chủ trương, giải pháp thông qua các Cương lĩnh, nghị quyết, chiến lược… Đảng chủ động đổi mới phương thức lãnh đạo Nhà nước, xã hội. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước mà tập trung nâng cao chất lượng định hướng phát triển kinh tế - xã hội, chính sách đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng của đất nước. Điều này tác động đến các lĩnh vực hoạt động của Chính phủ, đặc biệt là xây dựng pháp luật.
Mục tiêu và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội do các nghị quyết Đại hội Đảng đề ra là cơ sở cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của Chính phủ. Chính sách của Đảng về các thành phần kinh tế và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ sở không chỉ cho công tác xây dựng thể chế mà cả cho việc điều hành và thực hiện quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế của Chính phủ. Chính phủ đã xây dựng trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những định hướng của Đảng là căn cứ quan trọng để Chính phủ lập dự kiến Chương trình xây dựng pháp luật, hướng tới tính khả thi của dự kiến và thứ tự ưu tiên của các văn bản, các lĩnh vực pháp luật. Căn cứ vào định hướng đó, công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ đã được điều chỉnh theo hướng tập trung xây dựng thể chế kinh tế, bảo đảm tính khả thi, cụ thể của luật.
+ Đảng định hướng về quan điểm cho việc xây dựng các văn bản pháp luật
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Chính phủ thể hiện rõ nét qua quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản lập pháp. Ngoài việc xác định nhu cầu xây dựng văn bản, định hướng tư tưởng chủ đạo, Đảng còn đưa ra hướng giải quyết các vấn đề còn ý kiến khác nhau, hay còn vướng mắc về quan điểm trong quá trình xây dựng dự án luật, pháp lệnh, kể cả vấn đề có ý kiến không thống nhất giữa Chính phủ (là cơ quan trình) và Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Là cơ quan quản lý nhà nước thống nhất về kinh tế - xã hội, Chính phủ căn cứ vào các nghị quyết của Đảng để xây dựng thể chế kinh tế, đáp ứng yêu cầu của điều kiện mới trong mỗi giai đoạn.
+ Đảng lãnh đạo công tác điều hành của Chính phủ
Công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các hoạt động điều hành khác của Chính phủ được thực hiện một cách kịp thời, bảo đảm chất lượng nhờ chỉ đạo đúng hướng, sát sao, toàn diện từ phía Đảng.
* Về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp
Với tính chất đa dạng của các hoạt động tư pháp và tổ chức của các cơ quan tư pháp, Đảng đã có những cách thức lãnh đạo phù hợp dựa trên nguyên lý chung về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời có tính đến điều kiện cụ thể và đặc thù của cơ quan tư pháp.
Hiện nay, Đảng đã có chủ trương cải cách tư pháp. Thực hiện chủ trương này, nhiều quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan này. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) của Đảng đã đặt ra yêu cầu: Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền công dân.
2.4.2. Về hạn chế, bất cập
Thứ nhất, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân còn chậm. Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhiều lúc, nhiều nơi còn có tình trạng vừa buông lỏng và vừa bao biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội vẫn còn những hạn chế, bất cập. Vẫn còn cơ chế báo cáo, xin ý kiến và cho ý kiến giữa Đảng đoàn Quốc hội với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về hầu hết các hoạt động liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội thì rất khó tránh sự bao biện, làm thay. Cơ chế xin - cho ý kiến tạo ra sự không rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nếu có vấn đề xảy ra. Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc ban hành từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể dễ làm cho Đảng thực hiện công việc cụ thể của Nhà nước, đồng thời, dễ làm chậm tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh...
Do còn nhiều vấn đề về cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội nói riêng, đối với nhà nước nói chung chưa được rõ, nên trên thực tế, mọi vấn đề trọng đại của đất nước đều do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, do Ban Chấp hành Trung ương Đảng, do Bộ Chính trị hoặc ban Bí thư quyết định. Trên nhiều vấn đề, Quốc hội chỉ là cơ quan hợp thức hóa về mặt NN các quyết định có sẵn của Đảng. Nhân sự cấp cao của Quốc hội và nhà nước nói chung cũng như vậy3.
Thứ ba, những hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ
Trong hệ thống chính trị nước ta, mặc dù có một thực thể nhà nước nhận ủy quyền từ nhân dân đang vận hành nhưng hoạt động cầm quyền của Đảng cũng mang nhiều sắc thái nhà nước. Việc vận hành của quyền lực chính trị, đôi lúc tưởng nhầm đang có hai thiết chế quyền lực công: một Chính phủ quyết định các vấn đề kinh tế, văn hóa, giáo dục...; một “Chính phủ khác” quyết định các vấn đề về đối ngoại, an ninh, quốc phòng, nhân sự và tư tưởng.
Bộ máy hành chính chưa thật sự là hệ thống chặt chẽ được điều hành theo đúng pháp luật và bằng pháp luật. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, cục bộ, tùy tiện vẫn diễn ra rất phổ biến, thậm chí mang tính hệ thống. Trong các cơ quan chấp hành và điều hành, tệ quan liêu thể hiện ở các dạng cơ bản, như tình trạng Bộ máy hành chính nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, tình trạng quá nhiều cấp thủ trưởng, tình trạng hội họp, vạch kế hoạch liên miên, quy hoạch tràn lan, quan liêu trong quá trình ra các quyết định hành chính, tình trạng quá nhiều văn bản, thể chế hóa quá chi tiết, thủ tục rườm rà, tình trạng thông tư, chỉ thị lấn át, vô hiệu hóa các đạo luật, các pháp lệnh, tình trạng không sát thực tế, xa rời quần chúng, nói và chỉ đạo, điều hành chung chung, tình trạng cấm đoán tràn lan, tình trạng vô trách nhiệm, vô cảm trước các yêu cầu đòi hỏi của nhân dân, bệnh thành tích chủ nghĩa, tình trạng che giấu sự thật, báo cáo sai sự thật… Bên cạnh đó, tham nhũng vẫn không được đẩy lùi, thậm chí còn tăng cả về quy mô và thủ đoạn4.
Một số nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ quá cụ thể, dẫn đến tình trạng bao biện, làm thay Chính phủ, nhưng một số nội dung lại mang tính chung chung, chưa bảo đảm tính định hướng. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ vẫn còn bộc lộ nhiều lúng túng.
Thứ tư, hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp: Các cấp uỷ Đảng chưa có những tổng kết cơ bản về thực tế lãnh đạo đối với cơ quan tư pháp nói chung và trong từng khâu công tác tư pháp nói riêng; một số nơi cấp uỷ còn lúng túng khi chỉ đạo các công tác tư pháp cụ thể; Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, có nơi bị buông lỏng, thiếu kiểm tra đôn đốc, sự phối hợp giữa các cấp ủy đảng các cơ quan tư pháp với nhau và với cấp ủy địa phương chưa thực sự chặt chẽ; Trên thực tế, sự thiếu độc lập của cơ quan tư pháp khiến cho mức độ bảo vệ công lý bị hạn chế.; Còn có sự chậm trễ trong việc ban hành và thực thi các chủ trương về cải cách tư pháp, chậm thực hiện những giải pháp mang tính đột phá, thiếu các giải pháp đồng bộ về cải cách tư pháp; Tình trạng yếu kém và thiếu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tư pháp, tệ quan liêu trong hoạt động tư pháp đang hạn chế đáng kể vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích nhân dân; Tình trạng tham nhũng trong hệ thống tư pháp gây mất lòng tin của dân chúng vào hệ thống bảo vệ công lý đang có chiều hướng gia tăng.
1. TS. Đặng Đình Tân, TS. Đặng Minh Tuấn (Đồng chủ biên), Thể chế Đảng cầm quyền-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2012, Tr 263.
2. Xem thêm: Nguyễn Thị Việt Hương (Chủ nhiệm), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Bộ, mã số: CT 11- 16- 03: Mối quan hệ giữa nhà nước với đảng cộng sản trong nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Hà Nội 2012, tr 118-126
3. PGS.TS.Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên), Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007, tr 128
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ năm 2014, Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Chủ nhiệm đề tài: PGS,TS. Trịnh Đức Thảo, Hà Nội, 2014, tr. 181
TS. Quách Thị Minh Phượng
ThS. Nguyễn Đức Anh
Học viện Chính trị khu vực II