CT&PT - Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện của nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền tạo ra những cơ chế, thiết chế thực hiện các quyết định của pháp luật, duy trì trật tự và tự do công cộng như là những điều kiện cần thiết cho các biểu hiện của dân chủ.
1. Nhà nước pháp quyền - quyền lực thuộc về nhân dân, quản lý xã hội và bản thân nó bằng pháp luật - là hình thức biểu hiện của dân chủ. Dân chủ cần đến tính pháp lý và tính nhân văn của nhà nước pháp quyền. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, không có nhà nước pháp quyền thì không thể có dân chủ với đúng ý nghĩa của nó. Có thể nói, hạt nhân của lý luận nhà nước pháp quyền là vấn đề dân chủ. Nói đến dân chủ là nói đến pháp luật. Pháp luật vừa là sự phản ánh yêu cầu dân chủ vừa là công cụ để thực hiện dân chủ. Quan hệ nội tại giữa pháp luật và dân chủ biểu hiện ở chỗ, dân chủ nào cũng cần đến pháp luật. Quá trình dân chủ hoá xã hội là quá trình xây dựng và hoàn thiện không ngừng pháp luật. Càng dân chủ hoá càng cần pháp luật. Tuy nhiên, trong xã hội có lúc có pháp luật, nhưng lại không có dân chủ. Đó là lúc tồn tại nhà nước pháp trị thuần tuý. Sự ra đời của nhà nước pháp quyền gắn liền với quá trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, dân chủ là quá trình tìm kiếm và bảo vệ lợi ích của đa số người trong xã hội, hạn chế quyền lợi người cầm quyền, dân uỷ quyền nhưng không mất quyền.
Dân chủ, trước hết là dân chủ về chính trị, có nội dung cốt lõi là quản lý nhà nước thuộc về ai, quyền lực được tổ chức và vận hành theo phương thức nào. Trong thiết chế dân chủ, nhân dân lập nên nhà nước, ủy quyền cho nhà nước thực hiện quyền làm chủ của mình. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật quy định các thiết chế dân chủ, như quyền bầu cử, ứng cử, quyền kiểm tra và giám sát của công dân đối với các hoạt động của nhà nước. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền trở thành phương tiện làm chủ của công dân đối với nhà nước và xã hội, quy định tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và vận hành các thiết chế dân chủ. Dân chủ cần sự điều chỉnh của pháp luật và dân chủ trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước pháp quyền có thể khắc phục được sự bị biến dạng của dân chủ thành tập trung quan liêu và độc tài hoặc vô Chính phủ, hỗn loạn, phường hội và lệ làng thay phép nước. Dân chủ cần đến một hệ thống các nhân tố bảo đảm như: Hệ thống pháp luật đồng bộ, phản ánh đúng quy luật khách quan của sự phát triển xã hội; hệ thống tuyên truyền, giáo dục pháp luật và hình thành văn hoá pháp luật trong xã hội, hệ thống các cơ quan thi hành, bảo vệ pháp luật và đội ngũ công chức nhà nước trong sạch, vững mạnh. Dân chủ thực chất là xây dựng quyền lực của dân, tạo môi trường cho hoạt động tự do và sáng tạo của mọi người dân. Các quan hệ giữa công dân và nhà nước, công dân với công dân và giữa các quốc gia được bảo đảm bằng pháp luật.
Như vậy, giữa dân chủ và nhà nước pháp quyền có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghiên cứu các tư tưởng, học thuyết, quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới kể cả của các nước tư sản và các nước xã hội chủ nghĩa, có thể nhận thấy rằng, hầu hết các nhà khoa học đi đến thống nhất là: nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá trị phổ biến và là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ.
2. Mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước pháp quyền thể hiện ở một số khía cạnh sau:
- Nhà nước pháp quyền đã được nhìn nhận như cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ.
- Nhà nước pháp quyền là con đường dẫn tới mục tiêu dân chủ, thị trường tự do và xã hội được điều chỉnh hiệu quả. Nhà nước pháp quyền được ví như phương pháp bảo đảm quan trọng cho chính quyền tốt và giảm thiểu nguyên nhân của tham nhũng, chủ nghĩa quen biết hay chủ nghĩa thân hữu1.
- Nhà nước pháp quyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của cá nhân và các quyền con người khỏi sự xâm phạm từ các cơ quan công quyền hay từ hoạt động thực thi quản lý nhà nước.
- Dân chủ vừa là bản chất, vừa là điều kiện, là tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền. Bộ máy nhà nước pháp quyền được tổ chức và vận hành trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức quyền lực một cách dân chủ (chế độ tư pháp thật sự dân chủ, cơ quan xét xử chỉ tuân theo pháp luật với chế độ tố tụng công khai, dân chủ).
- Nhà nước pháp quyền gắn liền với vấn đề dân chủ là nhận định đúng đắn nhưng cần nhận thức rõ rằng: Nhà nước pháp quyền không hoàn toàn hòa đồng với dân chủ. Bởi vì, nếu quan niệm dân chủ như một phương pháp mà theo đó ý chí nhà nước được công thức hóa bởi đa số, thì có những vấn đề phải được bàn luận kỹ và thấu đáo. Với quan niệm dân chủ như trên, có thể dẫn tới hậu quả là không có lý do nào ngăn cản được những quyết định của đa số. Do vậy, các quyền của thiểu số có thể bị tước bỏ và các quan niệm của các dân tộc ít người hay các tôn giáo ít tín đồ có thể bị ngăn cấm hay tước bỏ. Trong khi đó, nhà nước pháp quyền là học thuyết nhằm bảo vệ các quyền tự do cá nhân. Từ cách lập luận này dẫn đến nhận định là nhà nước pháp quyềnnhà nước pháp quyền có mâu thuẫn phần nào đó với dân chủ theo nghĩa truyền thống, mà ở đó, dân chủ được xem như qui tắc đa số không hạn chế. Vì vậy, nền dân chủ và nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có tổ chức nhà nước thích hợp nhằm bảo đảm công bằng và công lý, hay nói cách khác, bảo đảm sự công bằng giữa các yêu cầu của nền dân chủ và các yêu cầu của nhà nước pháp quyền.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, chỉ từ khi dân chủ tư sản xuất hiện thì mới có cơ hội và điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được xây dựng ở hầu hết các nước tư bản phát triển và đang phát triển. Nhà nước pháp quyền với tư cách cách thức tổ chức và vận hành của chế độ nhà nước và xã hội không những được xây dựng ở chế độ tư bản, mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa, cho nên, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa2. Bởi vì, bên cạnh tính phổ quát, mỗi quốc gia đều có các đặc điểm riêng, từ đó tạo ra mô hình nhà nước có tính đặc thù của mình. Lý do của những khác biệt đó rất đa dạng, với các nhóm chủ yếu về: cơ chế tổ chức quyền lực, tính chất của nền kinh tế thị trường, sự khác biệt về văn hóa, đạo đức, truyền thống, truyền thống pháp luật3. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, khi xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần nghiên cứu và kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện nền dân chủ tư sản.
Khi Việt Nam đề ra chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có không ít nhà lý luận trong và ngoài nước đã cho rằng, chủ trương này khó mang tính khả thi và hiện thực vì theo những người này, dân chủ chỉ có thể thực hiện được trong chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng và có đảng đối lập, còn nhà nước pháp quyền như phương thức sử dụng quyền lực chính trị thì chỉ tồn tại khi các thiết chế chính trị đều bị kiểm soát và ràng buộc bởi hiến pháp, pháp luật và nó không thể xác lập được ở Việt Nam cũng như các nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì ở đó, Đảng Cộng sản cầm quyền không tự đặt mình dưới pháp luật, thoát ly khỏi sự kiểm soát của xã hội.
Quan điểm trên cần được bác bỏ, vì nó thiếu tính khoa học và tính hiện thực. Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở nhiều quốc gia trên thế giới đã chứng minh rằng, không có mô hình nhà nước pháp quyền chung cho mọi quốc gia. Mỗi quốc gia căn cứ vào các đặc thù của mình để xây dựng mô hình thích ứng. Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền là tất yếu lịch sử và khách quan. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh4. Từ học thuyết đến hiện thực, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là có tính hiện thực cao. Bởi vì, đây là mô hình có khả năng phản ánh các giá trị dân chủ, nhân đạo mà chế độ nhà nước pháp quyền ở nhiều nước trên thế giới đã chứng minh. Dựa vào đó, các tầng lớp nhân dân và nhân loại tiến bộ đã đấu tranh có hiệu quả giành công lý và nhân quyền trong nhiều thế kỷ qua5.
3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời không theo tuần tự của quy luật thay thế từ kiểu nhà nước tư sản đến kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà ra đời trên cơ sở nhà nước phong kiến đến nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nó là sản phẩm của sự vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong mối liên quan đến các phạm trù, như phương thức sản xuất, hình thái kinh tế xã hội... Vì vậy, một điều chắc chắc rằng, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là điều hoàn toàn có thể mà không cần phải trải qua chế độ dân chủ tư sản, vì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có nhiều ưu việt hơn nền dân chủ tư sản. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của đảng duy nhất cầm quyền không những không cản trở dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà còn tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cho đến nay, mặc dù được tiến hành theo nguyện vọng, ý chí, đòi hỏi, kiến nghị của nhân dân và các tổ chức của nhân dân, nhưng còn nhiều hạn chế. Quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quản lý nhà nước vẫn chưa được hoàn thiện. Ý chí, nguyện vọng của nhân dân thể hiện thông qua sự phản ánh các nhu cầu thực tiễn của đời sống xã hội bằng các “kênh” riêng của mình còn lúng túng và thiếu cơ sở pháp lý bảo đảm. Nhân dân nhận thức vấn đề bằng chính các lợi ích mà họ cảm nhận được để đánh giá tính đúng đắn của các chủ trương, việc làm của Đảng chứ không nhận thức bằng các lý luận, học thuyết… Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở xã hội là các tầng lớp nhân dân, phục vụ nhân dân, xã hội và do chính nhân dân lập ra nên bắt buộc phải hướng đến các lợi ích chính đáng đó của họ. Vì vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là yếu tố quan trọng, tiên quyết tạo nền tảng để mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cũng như ở nhiều nước trên thế giới, phát huy và mở rộng dân chủ là một trong những vấn đề quan trọng cốt lõi trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân lao động làm chủ, tất cả quản lý nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo6, cho nên, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được phải bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Dân chủ hay là chủ quyền nhân dân, tất cả quản lý nhà nước thuộc về nhân dân là ý chí, là nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Cho đến khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời thì ý chí, nguyện vọng về dân chủ của dân tộc Việt Nam mới trở thành hiện thực. Từ đó đến nay, Việt Nam vẫn khẳng định nền chính trị Việt Nam là nền chính trị dân chủ. Vì vậy, dân chủ đã được xác định là mục tiêu hướng tới của quản lý nhà nước và việc tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm quan trọng hàng đầu của Nhà nước. Dân chủ là nét đặc trưng, là mục đích, đồng thời cũng là động lực xuyên suốt mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa7. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi nội tại của việc xây dựng, phát triển cũng như hoàn thiện nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời là nhu cầu từ phía nhân dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩaViệt Nam là nhà nước bảo đảm dân chủ. Bảo đảm dân chủ được thể hiện trên hai phương diện: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ hóa và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân là những vấn đề thuộc về bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là mục đích đã được Đảng ta khẳng định. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa (bổ sung và phát triển năm 2011) khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm8.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, nhận thức và thực hành về dân chủ có nhiều tiến bộ. Hình thức dân chủ đại diện theo quan điểm pháp quyền đang từng bước được làm thực chất và ngày càng phản ánh đầy đủ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Hiện nay, trong quá trình xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhà nước pháp quyền Việt Nam, với nhận thức ngày càng sâu sắc về quyền làm chủ của nhân dân, bên cạnh việc nâng cao chất lượng của dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp đang được Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm, thể hiện trong thể chế về dân chủ ở cơ sở, đạo luật về trưng cầu ý kiến nhân dân đang được thúc đẩy soạn thảo để ban hành… Các hình thức dân chủ, như quyền lập hội, hội họp, biểu tình… cũng đang được soạn thảo hoặc xem xét soạn thảo… Hiến pháp năm 2013 khẳng định:“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”9.
1. TS. Ngô Huy Cương, Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 49.
2. GS. VS. Nguyễn Duy Quý, PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 155
3. Xem: GS. TSKH. Đào Trí Úc (chủ biên), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.33-80.
4. Xem: Gs. Viện sĩ. Nguyễn Duy Quý-Tạp chí Triết học số 11 (198), năm 2007.
5. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài KX 04 - 02: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân giai đoạn 2001 - 2010”, Chủ nhiệm: GS. TSKH. Đào Trí Úc, Hà Nội 2005, tr 66.
6. Xem Điều 2, Điều 4 Hiến pháp 2013.
7. GS.TS. Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tr 50.
8. http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&articleId=10038370.
9. Điều 6 Hiến pháp 2013.
ThS. Phạm Mai Phương
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh