Phát huy tinh thần của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

CT&PT - Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một sự kiện trọng đại, một thiên anh hùng ca trong lịch sử cách mạng Việt Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng vang dội đó được làm nên bởi nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là niềm tin, ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh mới hiện nay, xây dựng, củng cố và phát huy tinh thần của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là yêu cầu quan trọng, cấp thiết, góp phần xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

1. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của niềm tin, ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta kéo dài hơn hai mươi năm, tính từ khi Mỹ ngoan cố không ký Hiệp định Giơnevơ và xúc tiến kế hoạch xâm chiếm miền Nam nước ta bằng chiến lược chiến tranh đơn phương vào giữa thập niên 1950, cho đến khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi hoàn toàn vào trưa ngày 30/4/1975. Trong suốt cuộc kháng chiến, niềm tin, ý chí quyết thắng và khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc chính là động lực mạnh mẽ giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để giành thắng lợi cuối cùng. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 chính là chiến thắng của niềm tin, ý chí và khát vọng thống nhất đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện qua các mặt sau:

Thứ nhất, chiến thắng của niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta; tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của nhân dân ta, mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; tình đoàn kết chiến đấu, liên minh bền vững của nhân dân ba nước Đông Dương và sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới…; và đặc biệt là vai trò quan trọng của niềm tin, sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và sức mạnh phi thường của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng vô cùng quật cường.

Thực tiễn mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, cùng với thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã khẳng định chân lý: Có được lòng dân, được nhân dân ủng hộ, tin tưởng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch chiến thắng mọi khó khăn, thử thách. Đối với Đảng, niềm tin của nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh đưa đến mọi thành công. Do đó, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm giữ vững, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Theo V.I. Lênin: “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình… Nhiệm vụ thứ hai của Đảng ta là giành lấy chính quyền và đập tan sự phản kháng của bọn bóc lột”1, tức là muốn giành lấy chính quyền, muốn xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, trước hết phải thuyết phục được nhân dân, tạo dựng được lòng tin trong nhân dân; “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy”2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách mạng là do sự phấn đấu, hy sinh và trí thông minh, sáng tạo của hàng triệu nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách mạng”3; công tác dân vận của Đảng “là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho. Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”4. Đảng phải lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của nhân dân. Nhân dân chính là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử và là người làm nên lịch sử. Trên cơ sở xác định vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân đối với cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân để phát huy sức mạnh của nhân dân; phải thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; phải phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Trên cơ sở đề cao vai trò của nhân dân, khơi dậy và phát huy sức mạnh của nhân dân, bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn và hợp lòng dân, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo dựng được niềm tin vững chắc trong nhân dân, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Thứ hai, chiến thắng của ý chí kiên cường và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 chính là minh chứng rõ nét cho ý chí kiên cường và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh không cân sức giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ xâm lược - kẻ thù có sức mạnh vượt trội gấp nhiều lần về quân sự, kinh tế…, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, song ý chí kiên cường, không bao giờ khuất phục trước kẻ thù của dân tộc Việt Nam anh hùng vẫn luôn tỏa sáng. Mỗi người dân Việt Nam đều một lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam không phân biệt già trẻ, gái trai, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo… đã cùng đứng trong một đội ngũ, chủ động và sáng tạo trong đấu tranh, đồng cam cộng khổ để lập nên những chiến công hiển hách, khiến kẻ thù phải kinh ngạc, khiếp sợ và thất bại. Trong cuộc chiến đấu anh hùng ấy, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh trên chiến trường và trở thành tấm gương tiêu biểu cho thế hệ con người Việt Nam mới - trung thành với lý tưởng cộng sản và sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc.

Ở miền Bắc, mọi tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng, vừa sản xuất, vừa chiến đấu với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc làm việc bằng hai”, hàng chục vạn thanh niên ưu tú đã tiếp bước cha anh tình nguyện, xung phong vào chiến trường miền Nam. Các phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Ruộng rẫy là chiến trường, nhà nông là chiến sĩ” đã trở thành biểu tượng cho ý chí kiên cường của nhân dân miền Bắc. Với ý chí kiên cường ấy, quân và dân miền Bắc vừa làm nên những “cánh đồng năm tấn”, vừa bắn rơi hàng nghìn máy bay của không quân Mỹ, bắt sống hàng trăm giặc lái, làm nên những kỳ tích vẻ vang, tiêu biểu là “Chiến thắng Ðiện Biên Phủ trên không”.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ là cuộc chiến giữa hai đội quân, mà còn là cuộc chiến giữa hai ý chí. Mỹ và đồng minh mong muốn biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, “xây con đê ở miền Nam Việt Nam để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông - Nam Á”5. Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với ý chí kiên cường, quyết đánh và quyết thắng, quân và dân Việt Nam đã chung sức, đồng lòng kháng chiến để đưa cách mạng đi đến thắng lợi quyết định là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thứ ba, chiến thắng của khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Khát vọng đó được ươm mầm từ những ngày đầu cách mạng, được hun đúc qua những năm tháng chiến đấu gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Có thể nói, dân tộc Việt Nam đã phải trả một cái giá rất đắt để giành lại độc lập, tự do, từ những cuộc kháng chiến oanh liệt cho đến những nỗi mất mát không gì bù đắp được trong chiến tranh. Trong suốt những năm tháng đó, khát vọng thống nhất đất nước chưa bao giờ phai nhạt. Ngay cả khi các thế lực thù địch tìm mọi cách chia rẽ dân tộc, bóp nghẹt hy vọng của nhân dân ta, thì ý chí và khát vọng thống nhất Tổ quốc vẫn luôn đau đáu trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Từ miền Bắc, miền Nam cho đến kiều bào ta ở nước ngoài, ai ai cũng mong đến ngày đất nước được hòa bình, thống nhất, không còn chia cắt.

Trên cơ sở khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của toàn dân tộc, cùng với đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, Đảng ta đã huy động cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh chính trị, tinh thần, sức mạnh của truyền thống yêu nước nồng nàn cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đồng thời, kiên định giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với quan điểm đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng ta đã phát huy hiệu quả sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong suốt cuộc kháng chiến, dân tộc ta đồng thời thể hiện khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc, tinh thần quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược và niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 chính là biểu tượng sáng ngời cho khát vọng độc lập, tự do, thống nhất đất nước, là sự kết thúc quá trình lịch sử đầy gian khổ, thử thách, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên của độc lập dân tộc, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, và tiếp tục là điểm tựa cho niềm tin, ý chí quyết thắng của toàn dân tộc trong bối cảnh hiện nay.

2. Xây dựng niềm tin, ý chí quyết thắng cho toàn dân tộc trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Sau gần 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã tạo nên những kỳ tích trong lịch sử, trải qua kỷ nguyên đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975); kỷ nguyên thống nhất đất nước và đổi mới (1975 - 2025). Và giờ đây, chúng ta bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khởi đầu bằng sự kiện trọng đại - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Kỷ nguyên trước tạo tiền đề cho kỷ nguyên sau, kỷ nguyên sau kế thừa, phát triển thành tựu của kỷ nguyên trước, làm cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngày càng hòa quyện, phát triển không ngừng. Ý Đảng hòa quyện với lòng dân, khát vọng đưa đất nước vươn mình tiến vào kỷ nguyên mới.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; mọi người dân đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh… Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ, cơ hội chiến lược, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Điều quan trọng là chúng ta phát huy được tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự nỗ lực, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”6.

Trong bối cảnh đó, việc xây dựng niềm tin, ý chí quyết thắng cho toàn dân tộc tiếp tục giữ vai trò vô cùng quan trọng. 50 năm trước, Đại thắng mùa Xuân năm 1975, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thành quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện niềm tin, ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Ngày nay, niềm tin, ý chí của toàn dân tộc vẫn là điểm tựa vững chắc để đất nước ta gặt hái những thành tựu mới. Đó là niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là ý chí phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Để xây dựng, củng cố và phát huy tinh thần của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, trọng yếu, thường xuyên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chỉ khi Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh mới góp phần xây dựng, củng cố và phát huy niềm tin của nhân dân, ý chí quyết thắng của dân tộc, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”7.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”8.

Để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần xây dựng, củng cố và phát huy niềm tin của nhân dân, ý chí quyết thắng của dân tộc, cần:

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình. Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội. Kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí và nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp, thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, có ý nghĩa quyết định mọi thành công của cách mạng nước ta cả trước mắt và lâu dài. Do đó, trước hết, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ gắn với tăng cường trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu trong công tác cán bộ. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ một cách thực chất và hiệu quả. Nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ. Kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm mà không cần chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ. Chủ động phát hiện nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên đối với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tập trung đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tại địa phương, cơ sở. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát người đứng đầu trong thực hiện trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Thứ hai, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ ý chí phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và toàn xã hội về khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội hàm của tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc phải thường xuyên bổ sung những nội dung mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và đòi hỏi của thời đại.

Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng, khích lệ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, góp phần tạo dựng niềm tin vững chắc trong nhân dân về con đường phát triển của đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh và truyền hình trong việc tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ, động viên tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục tinh thần yêu nước và ý chí tự cường dân tộc trong hệ thống giáo dục - đào tạo, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, đề cao tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, giáo dục ý chí, nghị lực, tinh thần độc lập, tự chủ cho thế hệ trẻ trong xây dựng và phát triển đất nước. Xây dựng cho thế hệ hôm nay và mai sau động cơ, ý chí phấn đấu vươn lên, lập nên những kỳ tích mới trong lao động, phát triển kinh tế, nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và khoa học - công nghệ, sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật… Tạo môi trường thuận lợi nhằm khuyến khích thế hệ trẻ học tập, trải nghiệm, hoàn thiện và phát triển bản thân, góp phần thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có chính sách thu hút trong đào tạo, sử dụng và đãi ngộ người tài, chuẩn bị tiền đề cần thiết để họ có thể làm việc trong môi trường “đa văn hóa” và hội nhập quốc tế, trên tinh thần độc lập, tự chủ vì lợi ích quốc gia, dân tộc.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ nhằm góp phần khơi dậy tinh thần yêu nước, xây dựng niềm tin, ý chí cho toàn dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước. Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó nhấn mạnh: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ, giải pháp tuyên truyền, giáo dục hiệu quả để nâng cao nhận thức, quyết tâm cho các tầng lớp nhân dân; đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, thực hiện chuyển đổi số trong cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp, tạo niềm tin, khí thế mới trong xã hội. Triển khai sâu rộng phong trào “học tập số”, phổ cập, nâng cao kiến thức khoa học, công nghệ, kiến thức số trong cán bộ, công chức và nhân dân; các phong trào khởi nghiệp sáng tạo, cải tiến, nâng cao hiệu quả công việc, năng suất lao động, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy trí tuệ Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.


1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 36, tr. 208.

2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 147.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 14, tr. 467. 4, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232-233; t. 15, tr. 672.

5. Ngô Vương Anh: “Vang mãi khúc ca toàn thắng - Bài 1: Cuộc đối đầu lịch sử”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 29/4/2020, https://nhandan.vn/bai-1-cuoc-doi-dau-lich-su-post456835.html.

6. GS.TS. Tô Lâm: “Khát vọng vươn mình trong kỷ nguyên mới”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 31/12/2024, https://baochinhphu.vn/khat-vong-vuon-minh-trong-ky-nguyen- moi-102241231135349188.htm.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 57.

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí vui lòng để lại thông tin