1. Nhận thức về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng cho thấy, một trong những vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch thường xuyên tiến hành các hoạt động xuyên tạc, chống phá Đảng bằng “diễn biến hòa bình”, kích động tâm trạng bất mãn của người dân. Đó chính là những nguy cơ, mầm họa, đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, từ năm 2009, Đảng ta đã nhận định và đặt ra trọng trách to lớn, nặng nề và khó khăn: “Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, và bảo vệ an ninh chính trị nội bộ trong điều kiện mới... Nâng cao ý thức tự bảo vệ, tự đề kháng của cơ quan, đơn vị, cá nhân cán bộ, đảng viên trước các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, mua chuộc của kẻ thù... chống nguy cơ “tự diễn biến”” 1.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 01/1994) đã xác định 4 nguy cơ đối với chế độ ta là: “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”2 . Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011), lần đầu tiên Đảng ta nhận định: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”3 , với hàm nghĩa là một trong những nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng có ít nhất 10 lần nhắc đến cụm từ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có một số đoạn: Trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo sự nhất trí trong Đảng và đồng thuận xã hội; có quyết tâm chính trị cao với những biện pháp thiết thực, mạnh mẽ, đồng bộ, kiên quyết phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; chú trọng đổi mới công tác tổ chức - cán bộ, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch (bài học kinh nghiệm thứ nhất sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng).
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã chỉ rõ địa chỉ của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”: “những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã nhận diện 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay, gồm:
“1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ xúy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước”5.
Như vậy, cùng với việc lần đầu tiên chỉ ra 9 biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, điểm mới về nhận thức trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII là chỉ ra “vị trí” của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; mối quan hệ giữa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ và với nguy cơ phản bội, phản động. Nghị quyết khẳng định, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Có thể thấy, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là bước kế tiếp của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và ở mức đặc biệt nghiêm trọng. Chín biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Đảng chỉ ra còn cho thấy tính chất vô cùng nguy hiểm của nó trong bối cảnh hiện nay: khi các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề này, thông qua những cán bộ thoái hóa, biến chất để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không chỉ xâm nhập từ bên ngoài mà còn tác động từ bên trong nhằm phá hoại, gây bạo loạn lật đổ, dẫn đến làm mất đi vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại Hội nghị toàn quốc triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII: “Chúng ta không sợ nói ra khuyết điểm tiêu cực, nhưng đồng thời cũng không cho phép ai lợi dụng việc đấu tranh khắc phục khuyết điểm tiêu cực để bôi nhọ, kích động, chống phá Đảng ta, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”6. Do đó, việc nhận diện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là hết sức quan trọng, trên tinh thần đoàn kết, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, từ đó đề xuất những giải pháp đủ mạnh, triển khai những việc làm cụ thể, quyết liệt để làm chuyển biến rõ rệt tình hình; kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”.
Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã mở rộng phạm vi ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả trong xây dựng hệ thống chính trị, đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực... Đồng thời, bổ sung, làm rõ hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực” sát hợp tình hình mới. Trong đó nhấn mạnh, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân.
2. Định hướng và giải pháp
Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh, để đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong thời gian tới, phải tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa nhiều công việc cụ thể, thiết thực, tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã đề ra; đồng thời, bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm. Theo đó, phải chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ vụ lợi, “lợi ích nhóm”. Rà soát, hoàn thiện, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; công tác cán bộ, công tác kiểm tra; công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, báo chí và công luận.
Để cuộc đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đạt hiệu quả thực chất, cần bảo đảm một số định hướng, giải pháp sau:
Một là, tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và cán bộ, đảng viên, yêu cầu cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Cấp trên và người đứng đầu phải thực sự làm gương cho cấp dưới và nhân dân trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tinh thần phê bình và tự phê bình trong nội bộ, có biện pháp phòng ngừa và khắc phục khuyết điểm, hạn chế; kiên quyết khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”, chạy theo thành tích, đơn giản, hình thức trong kiểm điểm phê bình và tự phê bình.
Hai là, đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”. Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm những điều đảng viên không được làm ngay tại cơ sở, chi bộ; không để sự việc kéo dài, né tránh, “đùn đẩy” lên cấp trên.
Ba là, tiếp tục rà soát, sửa đổi, ban hành mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo động lực phấn đấu, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, đồng thời, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng.
Bốn là, thực hiện tốt các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Trong nguyên tắc tập trung dân chủ, tập trung và dân chủ thống nhất với nhau, tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ đi đôi với tập trung. Dân chủ là điều kiện, tiền đề của tập trung, tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được thực hiện và phát huy. Dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc, sức mạnh của Đảng càng được khẳng định. Nếu thực hành dân chủ tốt, sẽ phát huy được trí tuệ, tiềm năng, khơi dậy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi đảng viên, tổ chức đảng, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Bởi vậy, trong tổ chức, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng, phải thực hiện sự thống nhất chặt chẽ dân chủ với tập trung, không được tuyệt đối hóa hay coi nhẹ bất cứ mặt nào. Nếu tuyệt đối hóa tập trung sẽ dẫn đến quan liêu, chuyên quyền, độc đoán; ngược lại, tuyệt đối hóa dân chủ thì sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, vô tổ chức, vô kỷ luật. Thực hiện tự phê bình và phê bình phải gắn với các nội dung liên quan đến tư cách của người đảng viên, gắn với trách nhiệm, quyền hạn của cá nhân, đơn vị, địa phương mình phụ trách; chỉ rõ những vấn đề làm được, chưa làm được, nguyên nhân và phương hướng khắc phục. Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng là biện pháp khắc phục triệt để những khuyết điểm của tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc phê bình của quần chúng đối với Đảng là cung cấp thông tin quan trọng và cần thiết cho tổ chức đảng nghiên cứu, xem xét, đánh giá hoạt động của mình, đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu phải gương mẫu tự phê bình và phê bình, luôn lắng nghe ý kiến góp ý, phê bình của nhân dân, nghiêm túc tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức quán triệt triển khai thực hiện tốt trong thực tế công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm đến nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lựa chọn các hình thức, biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên phù hợp với nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng và đối tượng giáo dục trong từng hoàn cảnh, từng nhiệm vụ. Bổ sung, hoàn thiện những luận điểm khoa học về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giải quyết được những băn khoăn, trăn trở trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao nhận thức chính trị, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần đẩy lùi, triệt tiêu những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị và suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức hiện nay.
Sáu là, kịp thời phát hiện, vạch trần mọi âm mưu, luận điệu, hoạt động của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc, chống phá cuộc đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên có tác động trực tiếp từ những luận điệu tuyên truyền phản động, sự dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo của các thế lực thù địch và các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn, tiêu cực. Các thế lực thù địch mong muốn lôi kéo những người làm trong bộ máy đảng và nhà nước “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tổ chức, tập hợp thành lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Vì thế, để tránh cho cán bộ, đảng viên mắc phải âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cần chủ động các phương án, biện pháp cụ thể, tổ chức lực lượng thích hợp để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị.
Bảy là, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, thường xuyên duy trì hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cán bộ, đảng viên phải tự giác đặt mình vào trong tổ chức, chịu sự quản lý của tổ chức, chấp hành các chế độ, quy định trong sinh hoạt đảng. Khắc phục các hiện tượng ngại sinh hoạt, bỏ sinh hoạt dưới bất kỳ hình thức nào hoặc coi sinh hoạt chỉ là hình thức. Luôn nêu cao ý thức tổ chức, kỷ luật, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện dù ở bất kỳ cương vị công tác nào. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải nâng cao chất lượng quản lý đảng viên một cách toàn diện, kể cả các quan hệ xã hội, các nguồn thu nhập, lối sống. Tăng cường chế độ trách nhiệm trong Đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ góp phần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ở mọi lúc, mọi nơi; phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng. Do đó, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng phải được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, đạt hiệu quả thiết thực, nâng cao vai trò của cơ quan, Ủy ban Kiểm tra của cấp ủy các cấp, tổ chức đảng, cơ quan báo chí, quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng theo Điều lệ đã ban hành; kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, những tổ chức đảng yếu kém, làm trong sạch nội bộ Đảng; cần quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đối với người đứng đầu, cần tăng cường kiểm tra trách nhiệm chính trị trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.
Tám là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình”. Nâng cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trước sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, nhất là trước sự cám dỗ của đồng tiền, của lối sống hưởng thụ. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện với tự giáo dục, tự rèn luyện, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực, phương pháp, tác phong công tác. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của từng cán bộ, đảng viên trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống gắn với việc thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, nhất là Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.
Chín là, phát huy vai trò của nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, báo chí và dư luận xã hội trong việc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đó là, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, nhất là với các chủ trương, chính sách có liên quan, tác động đến đông đảo nhân dân; đẩy mạnh phát huy vai trò của dư luận xã hội, vận dụng dư luận xã hội để phát huy các chức năng đánh giá, điều chỉnh các quan hệ xã hội, giáo dục, giám sát tư vấn - phản biện và giải tỏa tâm lý xã hội trong cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận chính quyền các cấp. Tạo bước chuyển biến thực chất hơn trong giám sát của nhân dân đối với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng của toàn dân trước âm mưu chống phá của những phần tử suy thoái, của các thế lực phản động và thù địch từ bên ngoài.
Bên cạnh đó, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII thống nhất ban hành Quy định mới về những điều đảng viên không được làm; coi đây là căn cứ, cơ sở quan trọng để xem xét, xử lý các vi phạm của cán bộ, đảng viên. Tổ chức thực hiện tốt Quy định mới và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ có tác động tích cực, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc; ngăn chặn, đẩy lùi, kiên quyết đấu tranh, xử lý thật nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong toàn Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nói riêng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung là công việc to lớn, quan trọng, vừa mang ý nghĩa chiến lược vừa đặt ra cấp bách trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, liên quan mệnh hệ tới sự thành công trong đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đồng thời là một trong những nhân tố cơ bản và động lực quan trọng góp phần quyết định xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm trọng trách cầm quyền và trách nhiệm trước lịch sử của Đảng.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 119.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 292.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 185.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 74.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 32-34.
6. Nguyễn Phú Trọng: Vững bước trên còn đường đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật - Báo Nhân Dân, Hà Nội, 2017, t. 2.
TS. HÀ BAN
Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng