Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã đáp ứng sự mong mỏi của đội ngũ trí thức Việt Nam, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức, hiệp hội cũng như đội ngũ trí thức. Nhờ đó, đội ngũ trí thức Việt Nam đã có bước phát triển cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng, ngày càng đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ những kết quả đạt được, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Những bài học kinh nghiệm từ sự thành công
Một là, Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định mục tiêu: “Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí”1. Nghị quyết cũng đưa ra ba quan điểm chỉ đạo trong xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức, đó là: (i) Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; (ii) Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định; (iii) Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho trí thức sáng tạo, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ba quan điểm này đã được quán triệt trong xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức thể hiện qua các quy định của pháp luật. Trên cơ sở mục tiêu, quan điểm đúng đắn của Nghị quyết số 27-NQ/TW, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt kết hợp với tăng cường công tác tuyên truyền, xây dựng, hoàn thiện chương trình hành động, kế hoạch triển khai, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết. Thực tế cho thấy, mặc dù Nghị quyết số 27-NQ/TW ra đời kịp thời, có nội dung sát hợp, song nếu không có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, tập trung, không được triển khai đồng bộ thì sẽ không đem lại kết quả cao. Do đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phải đặc biệt quán triệt các quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, trong đó có quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh, góp phần thực hiện đột phá về đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hai là, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các bộ, ban, ngành chuyên môn đã kịp thời cụ thể hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW thông qua việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các đề án có liên quan đến xây dựng đội ngũ trí thức phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng, tạo căn cứ pháp lý, cơ chế, môi trường, chính sách đãi ngộ, coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, thu hút trí thức Việt Nam ở trong nước và nước ngoài tích cực cống hiến, góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW, đó là: Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 31/10/2012 của Ban Chấp hành Trung ương về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ... Bộ Chính trị (khóa X) đã ban hành Thông báo số 165-TB/TW, ngày 27/6/2008 về Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” (Đề án 165); Kết luận số 86-KL/TW, ngày 24/01/2014 về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Năm 2000, Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước” (Đề án 322); Ngày 07/6/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định Phê duyệt Đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010 - 2020” (Đề án 911). Ngày 18/01/2019, Chính phủ Phê duyệt đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030” (Đề án 89). Mục tiêu của Đề án 89 là đào tạo trình độ tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên đại học, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, trong đó 7% giảng viên được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài, 3% giảng viên được đào tạo trong nước có sự hợp tác giữa các trường đại học của Việt Nam với các trường đại học ở nước ngoài; phấn đấu mục tiêu 80% giảng viên các trường thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục, thể thao đạt trình độ thạc sĩ trở lên, được đào tạo toàn thời gian ở trong nước và nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới, cơ cấu hợp lý2. Có thể nói, các chính sách liên quan đến đội ngũ trí thức được rà soát, chỉnh sửa, bổ sung đúng như tinh thần “Rà soát các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của mình”3.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc đổi mới cơ chế phối hợp, việc thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW. Ban Tuyên giáo Trung ương cùng Văn phòng Trung ương Đảng, các cơ quan liên quan thường xuyên tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo kiểm tra và chuẩn bị sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết, kịp thời giải quyết, điều chỉnh những vấn đề phát sinh. Trong thời gian tới cần khẩn trương ban hành và triển khai thực hiện “Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021 - 2030” và “Chiến lượng quốc gia thu hút, trọng dụng nhân tài”; bên cạnh đó, tăng cường tổng kết tổ chức thực hiện Đề án 322, Đề án 911 và Đề án 89 về đào tạo đội ngũ tiến sĩ.
Bốn là, Đảng đã lựa chọn một số lĩnh vực có thể làm ngay, coi đây là những đột phá để đẩy nhanh việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 27-NQ/TW, tạo chuyển biến tích cực, góp phần tăng cường niềm tin của đội ngũ trí thức, đảng viên và nhân dân nói chung. Ví dụ: Hội nghị trung ương 7 khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; theo Nghị định 50/2022/NĐ-CP, ngày 02/8/2022 của Chính phủ quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, từ ngày 15/08/2022, viên chức có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trong đơn vị sự nghiệp công lập và viên chức làm việc trong một số lĩnh vực sự nghiệp đặc thù có thể nghỉ hưu muộn hơn (không quá 05 năm) nếu có đủ điều kiện đối với viên chức có học hàm Giáo sư hoặc Phó Giáo sư; viên chức giữ chức danh nghề nghiệp có yêu cầu trình độ đào tạo Tiến sĩ hoặc chuyên khoa II; giám định viên pháp y hoặc giám định viên pháp y tâm thần; viên chức có chuyên môn, kỹ thuật cao trong một số lĩnh vực sự nghiệp đặc thù theo pháp luật chuyên ngành.
Những bài học kinh nghiệm từ hạn chế
Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo không đồng đều, quyết liệt của các bộ, ban, ngành liên quan và các tỉnh thành trong thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW. Chẳng hạn, trong Nghị quyết xác định mục tiêu “xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020”, song đến tháng 5/2020, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng đại diện các bộ, ngành Trung ương mới có phiên họp đầu tiên của Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập Đề án “Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021 - 2030”. Đây là việc làm quá chậm so với yêu cầu của nghị quyết và của thực tiễn cuộc sống. Ngoài một số vấn đề do điều kiện khách quan do đại dịch Covid-19, cải cách tiền lương còn bị dừng lại, thì nhiều vấn đề liên quan tới nghị quyết chưa được tổ chức thực hiện quyết liệt. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, tại các cơ quan Trung ương, Nghị quyết được quán triệt thực hiện quyết liệt và kịp thời hơn so với các tỉnh/thành phố; nhiều nội dung của Nghị quyết còn chậm được cụ thể hóa, thế chế hóa; phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đối với đội ngũ trí thức còn chậm đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển; sự phát triển và cống hiến của đội ngũ trí thức chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước4.
Hai là, các quan điểm của Nghị quyết số 27-NQ/TW chậm được thể chế hóa thành chính sách cụ thể để thực hiện. Chẳng hạn, đến nay, chúng ta vẫn chưa ban hành chiến lược phát triển đối với đội ngũ trí thức và chính sách đối với nhân tài - một trong những vấn đề đã được Nghị quyết đề cập, đó là: “trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”. Bên cạnh đó, một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí thức chậm đi vào thực tiễn: Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020; Kết luận số 86-KL/TW, ngày 24/01/2014 của Bộ Chính trị về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ...; Hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ và tự do học thuật chưa đồng bộ5. Để khắc phục tình trạng trên, sớm đưa Nghị quyết đi sâu, đi sát vào cuộc sống, Chính phủ, các cơ quan hữu quan phải sớm thể chế hóa Nghị quyết thành chính sách cụ thể; cơ chế, chế độ, chính sách phải được xây dựng theo hướng tạo điều kiện cho trí thức nghiên cứu, sáng tạo, thực sự cống hiến vì sự phát triển của đất nước.
Ba là, chưa thống nhất về nội hàm của phạm trù “trí thức”, điều này làm cho công tác điều tra, khảo sát, tổng kết và đề xuất chính sách phù hợp gặp khó khăn. Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài”6. Theo đó, cần đầu tư nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, học hỏi kinh nghiệm quốc tế để có sự thống nhất về nội hàm “trí thức”, trên cơ sở đó, xây dựng đội ngũ trí thức có đủ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn.
Bốn là, thiếu môi trường thuận lợi cho đội ngũ trí thức phát huy năng lực, sở trường, nhất là đội ngũ trí thức làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng yêu cầu: “Chú trọng phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị”7. Khác với các ngành khoa học khác, khoa học lý luận chính trị gắn với những vấn đề chính trị, do đó, đội ngũ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị luôn phải đứng trên lập trường, thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo đó, cần xây dựng quy chế dân chủ trong công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị. Tuy nhiên, cho đến nay, quy chế này vẫn chưa được ban hành, từ đó phần nào cản trở hoạt động sáng tạo của đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị nói riêng. Trên thực tế, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X và các Nghị quyết của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28/3/1992 của Bộ Chính trị khóa VII; Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI) nhằm bảo đảm dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Đặc biệt, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Quy định số 285-QĐ/TW, ngày 25/4/2015 về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước, song đây là quy định của Đảng chứ chưa phải là quy định mang tính pháp luật của Nhà nước, chưa bảo đảm tính hệ thống và tính toàn diện cho đội ngũ trí thức. Tất nhiên dân chủ phải đi liền với kỷ cương, kỷ luật, gắn với trách nhiệm của người nghiên cứu đối với Đảng, đất nước, dân tộc, đúng như Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 nhấn mạnh: “Coi trọng việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận”8.
Có thể khẳng định, Nghị quyết số 27-NQ/TW không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với đội ngũ trí thức mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển đất nước, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Quan điểm, nội dung Nghị quyết thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, đánh giá cao vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức. Bên cạnh những bài học kinh nghiệm từ sự thành công trong quá trình thực hiện Nghị quyết, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục, nhất là việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết. “Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững"9, vì vậy, trong thời gian tới, Ðảng, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến chiến lược đào tạo nhân tài và sử dụng nhân tài; luôn tin tưởng đội ngũ trí thức, có cơ chế để trí thức tham gia phản biện, giám định xã hội; đồng thời có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để trí thức yên tâm công tác, cống hiến hết mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
1, 3, 6, 9. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Những đề án nghìn tỷ về đào tạo tiến sĩ, ngày 17/5/2021, Báo Dân trí, https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/nhung-de-an-nghin-ty-ve-dao-tao-tien-si-20210517131455610.htm.
4. Đánh giá, tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 27 về đội ngũ trí thức trong tình hình mới hiện nay, ngày 19/7/2022, Tạp chí Tuyên giáo, https://tuyengiao.vn/nhip-cau-tuyen-giao/ban-tuyen-giao-tw/danh-gia-tong-ket-15-nam-thuc-hien-nghi-quyet-27-ve-doi-ngu-tri-thuc-trong-tinh-hinh-moi-hien-nay-139825.
5. GS, TS. NGƯT. Đinh Xuân Khoa: Cần có những chính sách quan trọng đối với đội ngũ trí thức để phát triển và hội nhập quốc tế, ngày 28/8/2018, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/52062/can-co-nhung-chinh-sach-quan-trong-doi-voi-doi-ngu-tri-thuc-de-phat-trien-va-hoi-nhap-quoc-te.aspx.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
8. Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030.
GS, TS. TRẦN VĂN PHÒNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh