1. Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển nửa cuối thế kỷ XX
Đông Á là nơi sản sinh ra mô hình nhà nước kiến tạo phát triển, sau đó được tiếp nhận và áp dụng có điều chỉnh ở nhiều nước Đông Nam Á, các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ latinh. Kể cả ở các nước Bắc Âu và Mỹ, các nhà nước này trong những thời kỳ nhất định cũng đã từng thực thi các chính sách và công cụ mang sắc thái của nhà nước kiến tạo phát triển.
* Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển Đông Á
Nhà nước kiến tạo phát triển Đông Á được coi là mô hình "cổ điển", thường có khuynh hướng độc tài, thiếu dân chủ, nhưng trên thực tế lại tạo ra những điều kiện thuận lợi, dễ dẫn đến thành công hơn trong việc xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển. Nếu như các nhà nước có xu hướng dân chủ hơn (như các trường hợp ở Brazil, Ấn Độ và Nam Phi) thường gặp những trở ngại nhất định trong việc xây dựng thành công nhà nước kiến tạo phát triển, thì chính sự độc tài, sự tập trung quyền lực của các nhà nước Đông Á lại là một trong những điều kiện cần thiết cho phép các nhà nước Đông Á thực hiện tốt chức năng kiến tạo, vừa có khả năng huy động các nguồn lực, thực thi các chính sách, vừa đóng vai trò định hướng, dẫn dắt nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu phát triển. Tuy nhiên, để tạo nên những thành công, sự độc tài của nhà nước kiến tạo phát triển Đông Á bao giờ cũng gắn liền với một nền hành chính công vụ chuyên nghiệp, phục vụ, hiệu quả, mà ở đó có sự cam kết, quyết tâm của giới lãnh đạo đối với sự phát triển và sự tận tâm, tận lực của giới công chức, kinh doanh tinh hoa trong kiến tạo, điều hành phát triển kinh tế.
Đó là những điều kiện quan trọng, không thể thiếu, góp phần nâng cao vai trò và năng lực của các nhà nước Đông Á trong việc thúc đẩy sự phát triển. Chính những nhân tố này đã giúp cho các quốc gia Đông Á thật sự chuyển mình, phát triển và trở thành những con hổ Đông Á vào những thập niên cuối của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong mô hình Đông Á cũng có những khác biệt nhất định, nhất là trong cách thức điều hành nền kinh tế. Nhật Bản được xem là nhà nước kiến tạo phát triển cổ điển với sự can thiệp sâu rộng và trực tiếp vào nền kinh tế. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá nặng nề. Để khắc phục những khó khăn về kinh tế và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, Chính phủ Nhật, đặc biệt là Bộ Thương mại và Công nghiệp quốc tế (MITI) - cơ quan điều phối quốc gia đã tập trung điều hành, quản lý bốn ngành công nghiệp then chốt, đó là cơ khí, đóng tàu, thép và than.
Đặc điểm nổi trội của MITI là bộ máy hoạt động tinh gọn, hiệu quả, có khả năng kiểm soát gián tiếp ngân sách nhà nước và có đủ thẩm quyền để đưa ra các quyết định ưu đãi đầu tư mà không cần thông qua Bộ tài chính. Dựa vào mối liên hệ mật thiết, gắn kết giữa nhà nước và doanh nghiệp, MITI thành lập Hội đồng Hợp lý hoá các ngành công nghiệp, bao gồm đại diện của các doanh nghiệp lớn trong 4 ngành công nghiệp then chốt, các hiệp hội ngành nghề và đội ngũ công chức nhằm xây dựng cơ chế để nhà nước và giới doanh nhân có thể trao đổi, thảo luận, tham vấn chính sách và cam kết phối hợp giải quyết những khó khăn, thách thức mà các ngành công nghiệp đó đang phải đối mặt. Đặc biệt là, ngân hàng Phát triển Nhật Bản, sau khi có các đánh giá kỹ thuật và tham vấn với các bên liên quan cũng đồng ý tham gia với vai trò hỗ trợ vốn ưu đãi cho việc thực hiện các cam kết này. Ngoài ra, sự đồng thuận trong văn hóa của người Nhật cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm tăng khả năng kết nối giữa khu vực công với khu vực tư, giữa chính phủ với các doanh nhân và nhân dân Nhật nhằm đạt được các mục tiêu phát triển quốc gia.
Rõ ràng, nhà nước kiến tạo phát triển Nhật Bản đã thực hiện chức năng "kiến tạo, định hướng" nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc xác định các mục tiêu chiến lược chung cho nền kinh tế; sau đó xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp; và tạo lập thể chế cho sự vận hành của cơ quan điều phối quốc gia (MITI) với mối quan hệ công - tư hòa hợp để phối hợp hành động giữa nhà nước và các doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng đều có sự đồng thuận giữa nhà nước và doanh nghiệp, chẳng hạn như trường hợp trước đây các doanh nghiệp ô tô Nhật Bản đã từng phản đối ý tưởng sáp nhập của Chính phủ, song dưới góc độ để đạt được các mục tiêu chiến lược chung nhất, thì nhà nước kiến tạo phát triển Nhật Bản luôn nhận được sự hợp tác, ủng hộ của các doanh nghiệp. Ở Hàn Quốc, mặc dù hiện nay nhà nước đã chuyển dần theo hướng Tân tự do và mang tính "nhà nước điều tiết" nhiều hơn, bớt chủ động can thiệp hơn, nhưng trong thời kỳ 1960 - 1980, nhà nước kiến tạo phát triển Hàn Quốc cũng đã thể hiện sự chủ động dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển bằng 3 công cụ chính, đó là: các chính sách công nghiệp đột phá, tức là lựa chọn một vài ngành công nghiệp mũi nhọn, cơ quan điều phối siêu bộ - Ủy ban Kế hoạch Kinh tế (EPB - The Economic Planning Board), một cơ quan thí điểm có quyền lực rất lớn và nhà nước sở hữu và kiểm soát toàn bộ khối ngân hàng [109]. Đây là những đặc điểm cơ bản của chính phủ Hàn Quốc, nó vừa có tính tương đồng, song cũng rất khác biệt so với Nhật Bản.
Alice Amsden, nguyên giáo sư Kinh tế chính trị học, Viện Công nghệ Massachusetts, Đại học Cambridge, Mỹ, trong nghiên cứu của mình, cho rằng chính phủ Hàn Quốc đã đóng vai trò quan trọng có tính chiến lược trong việc huy động các lực lượng trong nước và quốc tế và khai thác các lực lượng đó để phục vụ lợi ích kinh tế của quốc gia. Điều này có nghĩa là, nhà nước Hàn Quốc đã thực hiện chính sách bao cấp và lựa chọn, định hướng cho một số ngành công nghiệp chiến lược (đó là những ngành có năng suất lao động và thu nhập cao, có độ co giãn về nhu cầu trong thị trường quốc tế, có tiềm năng tiến bộ nhanh về công nghệ…) và sau đó tạo lập thể chế để các ngành công nghiệp đó có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Còn các ngành công nghiệp khác thì phải đối mặt với nhiều thách thức khắc nghiệt của cạnh tranh thị trường, mà không nhận được sự trợ giúp của nhà nước. Muốn vậy, nhà nước cần có các công cụ kiểm soát để quản lý nền kinh tế và đầu tư cho các ngành kinh tế chiến lược, thông qua việc áp đặt kỷ cương đối với các hành vi kinh doanh của doanh nghiệp, thưởng cho các doanh nghiệp thực thi tốt, trừng phạt các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và hạn chế bảo lãnh cho các doanh nghiệp quản lý yếu kém trong các ngành công nghiệp có tiềm năng đạt nhiều lợi nhuận. Ví dụ như, các Chaebols - những tập đoàn lớn kinh doanh đa ngành của Hàn Quốc đã phát triển mạnh dưới sự ảnh hưởng và chỉ đạo trực tiếp của nhà nước, song để tránh độc quyền, nhà nước Hàn Quốc đã kiểm soát giá cả, dòng vốn và hệ thống tài chính một cách nghiêm ngặt, đồng thời thường xuyên thương lượng với các tập đoàn này. Cách thức thực thi chính sách công nghiệp này, về cơ bản, rất khác với một số nước phương Tây. Các nhà nước phương Tây thường trợ cấp cho các ngành công nghiệp hay các doanh nghiệp hoạt động yếu kém, đang đối mặt với khó khăn tài chính, trong khi đó, nhà nước kiến tạo phát triển Hàn Quốc không chỉ bao cấp các ngành công nghiệp thúc đẩy tăng trưởng, mà còn đặt ra các tiêu chí nghiêm ngặt để buộc các ngành này phải nâng cao hiệu suất nếu muốn có được các nguồn bao cấp từ nhà nước. Chính vì thế, tính kỷ cương của nhà nước đối với doanh nghiệp và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp kết hợp với tuân thủ kỷ cương trở thành một trong những nhân tố động lực cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong chính sách công nghiệp Hàn Quốc, là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng đáng kể.
Trong khi đó, nhà nước Đài Loan không có sự chủ động định hướng mạnh mẽ như Nhật Bản và Hàn Quốc, bởi vì khu vực tư nhân ở Đài Loan không có các công ty có quy mô lớn đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước. Do vậy, nhà nước kiến tạo phát triển Đài Loan ít can thiệp, định hướng hơn đối với khu vực tư, mà chủ động kiến tạo, dẫn dắt trong việc thúc đẩy R&D và các doanh nghiệp nhà nước, tức là thay vì can thiệp, nhà nước Đài Loan đã chú trọng cấp tài chính cho các công ty thực hiện các nghiên cứu và phát triển.
Vào những năm 1980, Đài Loan cũng thiết lập Văn phòng Phát triển Công nghiệp (Industrial Development Bureau - IDB) bao gồm khoảng 200 kỹ sư, các chuyên gia và các nhà kinh tế. Các chuyên gia chỉ ra rằng, chẳng hạn như, trong một chuỗi sản xuất của các doanh nghiệp Đài Loan bao gồm việc giám sát nhập khẩu kính, người mua hàng nhập khẩu kính, năng lực sản xuất của các nhà sản xuất kính, thì các nhân viên của IDB phải thường xuyên đến thăm và theo dõi các doanh nghiệp này, xem đó như là một phần của công việc của mình. Mục đích của việc theo dõi đó là tìm kiếm các cơ hội để "đẩy mạnh" quá trình thay thế nhập khẩu và xúc tiến xuất khẩu bằng cách sử dụng nhiều phương pháp hành chính để "khuyến khích", "cổ vũ" những nhà nhập khẩu lớn chuyển dần từ việc nhập khẩu sang tìm kiếm các nguồn cung ứng ở địa phương, bởi vì họ tin chắc rằng các nhà cung cấp trong nước có thể đáp ứng được chất lượng và giá cả của hàng nhập khẩu, miễn là họ có được một hợp đồng cung cấp dài hạn và một số hỗ trợ về mặt kỹ thuật.
Trường hợp của công ty xuyên quốc gia Philips là một ví dụ trong việc nhập khẩu kính chuyên dụng cho tivi. Các quan chức IDB đã thông báo cho Philips về tiềm năng chuyển đổi của công ty mình, và chỉ ra rằng họ sẽ chú ý các yêu cầu khác của Philips một cách ưu đãi hơn nếu công ty này chấp nhận việc chuyển đổi. Tuy nhiên, Philips lại quyết định không chuyển đổi. Sau đó, công ty Philips bắt đầu gặp phải sự chậm trễ liên tục trong các ứng dụng của mình để nhập khẩu kính chuyên dụng, mà trước đây họ thường được cung cấp ngay. Philips phản ánh việc này với bộ trưởng, bộ trưởng xin lỗi và cho biết ông sẽ lưu ý vấn đề này. Song sự chậm trễ vẫn tiếp tục. Cuối cùng Philips đã chấp nhận thông báo và chuyển đổi. Các nhà cung cấp trong nước đã thực hiện đầu tư cần thiết về chất lượng, sau đó chiếm vị thế trên thị trường quốc tế và bắt đầu xuất khẩu.
Rõ ràng, việc thúc đẩy các doanh nghiệp vào chuỗi các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, cũng như sự khuyến khích các công ty xuyên quốc gia và các công ty trong nước thiết lập các mối quan hệ cung cấp trong nước đã diễn ra trong nhiều lĩnh vực, trong từng trường hợp cụ thể, trong nhiều thập niên ở Đài Loan. Điều này đòi hỏi một đội ngũ cán bộ công chức trung thực, có thẩm quyền, có kỹ năng về kỹ thuật và tài chính; và một loạt các công cụ, có khả năng quản lý thương mại (như ví dụ của Philips) hay một loạt các biện pháp phi thương mại để khuyến khích các công ty thay thế nhập khẩu bằng các mặt hàng sản xuất trong nước và hướng đến xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, các nhà nước kiến tạo phát triển Đông Á thường có 3 đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, nhà nước kiến tạo phát triển Đông Á bao giờ cũng có một quyết tâm chính trị mạnh mẽ để phát triển, xem tăng trưởng kinh tế là ưu tiên hàng đầu, là lợi ích căn bản của quốc gia. Thứ hai, nhà nước kiến tạo phát triển Đông Á thiết lập và duy trì sự độc lập, tự chủ kết nối mạnh mẽ thể chế chính trị với cơ cấu xã hội, mà cốt lõi là mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ giữa bộ máy hành chính ưu tú với các khu vực tư nhân, các doanh nghiệp và người dân. Đây được xem là tiêu chí cơ bản để đánh giá hiệu quả của nhà nước kiến tạo phát triển. Chính sự độc lập, tự chủ này đã cho phép nhà nước có khả năng dẫn dắt, định hướng các hoạt động thương mại và toàn bộ quá trình công nghiệp hóa. Mặc dù nhà nước không thay thế trực tiếp các cơ sở tư nhân và các doanh nghiệp, nhưng nhà nước chủ động can thiệp và hướng dẫn các khu vực tư nhân theo các chiến lược quốc gia.Thứ ba, nhà nước kiến tạo phát triển Đông Á có một chính quyền trung ương mạnh mẽ và tích cực, trong đó "cơ quan điều phối quốc gia" đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định và lựa chọn các ưu tiên chính sách. Các công cụ chính sách được xây dựng bởi một bộ phận quan chức có năng lực, có tầm nhìn trong bộ máy hành chính nhà nước với một mạng lưới chính trị có khả năng cung cấp đầy đủ các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước có hiệu quả, tích cực và chủ động.
* Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở các nước Bắc Âu
Mặc dù, nhà nước kiến tạo phát triển ban đầu chủ yếu được thiết lập từ nhu cầu thực tiễn của các nước Đông Á và sau đó là các nước đang phát triển, nhưng các nước Bắc Âu, ngoại trừ Phần Lan, cho đến những năm 1970, đều đã có những tính chất của nhà nước kiến tạo phát triển, cho dù có những khác biệt nhất định so với các nhà nước Đông Á và không thể xếp vào mô hình nhà nước kiến tạo phát triển cổ điển kiểu Đông Á. Trước hết, các nước Bắc Âu cũng có sự chủ động định hướng trong hoạch định và thực thi các chính sách ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp then chốt, nhưng không ở phạm vi rộng như các nước Đông Á. Chẳng hạn, nhà nước Thụy Điển đã từng tập trung thực thi các chính sách đột phá đối với các ngành công nghiệp như luyện kim (vào giữa thế kỷ 18), đường sắt (vào những năm 1850), thủy điện (vào những năm 1890), v.v... thông qua mối quan hệ hợp tác và chủ động định hướng, dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân. Những năm đầu thế kỷ XX, nhà nước Thụy Điển cũng thông qua các chính sách bảo hộ đối với các ngành công nghiệp nặng của mình. Nhà nước Đan Mạch cũng đã từng can thiệp và có các ưu tiên chính sách chủ động định hướng cho sự phát triển xuất khẩu nông sản và trở thành động lực tăng trưởng chính trong nền kinh tế vào những năm 1930. Hơn nữa, các nước Bắc Âu cũng có sự chủ động tập trung đầu tư cho các hướng nghiên cứu và phát triển, làm cơ sở cho các ngành công nghiệp được đã lựa chọn và ưu tiên. Cho đến nay, phần lớn các viện và trung tâm nghiên cứu và phát triển lớn ở các nước này là của nhà nước chứ không phải của khối tư nhân. Đặc biệt là, các nhà nước Bắc Âu tôn trọng quản trị quốc gia theo chủ nghĩa tự do và tạo ra hệ thống công quyền dựa trên năng lực, liêm chính và không tham nhũng. Ngoài ra, các chính sách phúc lợi cũng được định hướng để thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu kinh tế cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua đó góp phần đáng kể trong việc làm giảm sức ép chính trị đối với các quá trình tái cơ cấu kinh tế do nhà nước chủ động định hướng, dẫn dắt.
Rõ ràng, mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở Bắc Âu đã chứng tỏ một khả năng trong thực tiễn rằng, tùy thuộc vào bối cảnh chính trị - xã hội và các điều kiện phát triển, nhà nước có thể can thiệp, định hướng sự phát triển kinh tế bằng nhiều cách thức khác nhau, với nhiều công cụ khác nhau như các chính sách phúc lợi xã hội, các chương trình nghiên cứu và phát triển, v.v… thay vì sự can thiệp mạnh mẽ mang tính độc đoán, phi dân chủ của nhà nước như ở mô hình Đông Á - một yếu tố với những điều kiện lịch sử nhất định đã từng tạo nên sự thành công, song dường như khó có thể phù hợp trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
* Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển đã từng có ở Mỹ
Cũng như các nhà nước Bắc Âu, nhà nước Mỹ, mặc dù không phải là nhà nước kiến tạo phát triển, nhưng trong những thời kỳ nhất định đã từng có các ý tưởng và đã từng thực thi một số chính sách mang tính định hướng của nhà nước kiến tạo phát triển. Ý tưởng về việc bảo vệ các "ngành công nghiệp non trẻ" (Infantry industry) của Alexander Hamilton - Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Mỹ vào năm 1791 có thể được xem là một trong những ý tưởng cốt lõi của một nhà nước kiến tạo phát triển trong một thể chế chính trị coi trọng thị trường tự do cạnh tranh ở Mỹ. Sau đó, từ những năm 1830 cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ II, mặc dù chưa có sự chủ động định hướng rõ rệt của nhà nước như ở các nước Đông Á sau này, nhưng nhà nước Mỹ cũng đã thực thi các chính sách bảo hộ mậu dịch mang tính định hướng mạnh mẽ của nhà nước. Ngoài ra, nhà nước Mỹ cũng chủ động xác định các ưu tiên và đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, giáo dục, cũng như các hoạt động nghiên cứu và phát triển, v.v… trong suốt khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
Đặc biệt là, sau chiến tranh thế giới lần thứ II, mặc dù Mỹ đã giành được các vị thế thống trị trên thị trường thế giới và bắt đầu thực thi các chính sách tự do hóa thương mại và đầu tư, song nhà nước Mỹ vẫn thực hiện các hoạt động mang tính kiến tạo theo một cách rất đặc biệt, đó là nhà nước Mỹ đã tích cực, chủ động thúc đẩy các nghiên cứu khoa học công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua việc chủ động tạo lập và vận hành một cơ chế phối hợp hoạt động của một mạng lưới tinh hoa bao gồm các chuyên gia kỹ thuật có trình độ cao trong các cơ quan nhà nước, các ngành công nghiệp, các trường đại học và các viện nghiên cứu. Với những yếu tố này, nhà nước Mỹ được xem như là một "nhà nước mạng lưới kiến tạo phát triển" (Developmental Network State) - một phiên bản khác của nhà nước kiến tạo phát triển, rất khác biệt so với "nhà nước hành chính kiến tạo phát triển" (Developmental Bureaucratic State) cổ điển ở các nước Đông Á.
Một trong những điểm khác biệt nhất so với các nhà nước kiến tạo phát triển cổ điển Đông Á là nhà nước Mỹ không thiết lập một cơ quan điều phối siêu bộ để định hướng đầu tư như MITI ở Nhật Bản hay EPB ở Hàn Quốc. Các định hướng của nhà nước Mỹ thường được thực hiện thông qua các kế hoạch tài trợ cho nghiên cứu và phát triển trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội như quốc phòng, công nghiệp điện tử, y tế cộng đồng, v.v... Trên thực tế, chính nhờ vào các định hướng, các đơn đặt hàng và đầu tư của nhà nước, mà nhiều ngành công nghiệp của Mỹ như công nghiệp máy tính điện tử, công nghệ gien, dược phẩm, v.v… đã có được lợi thế cạnh tranh, chiếm được ưu thế trên thị trường quốc tế. Điều này chứng tỏ rằng, nhà nước Mỹ, mặc dù được xem là đối cực của các nhà nước kiến tạo phát triển, nhưng cũng sử dụng những hình thức và công cụ chính sách rất đa dạng để chủ động định hướng, dẫn dắt và kiến tạo năng lực cạnh tranh nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
2. Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển thế kỷ XXI
Botswana là một ví dụ tiêu biểu cho mô hình nhà nước kiến tạo phát triển trong thế kỷ XXI. Sau khi giành được độc lập vào năm 1966, tổng sản phẩm quốc nội GDP bình quân đầu người của Botswana chỉ khoảng 60 USD/năm. Trong vòng 25 phát triển, với tốc độ tăng GDP trung bình khoảng 10%/năm, GDP bình quân đầu người của nước này đã đạt mức 2.583 USD/người vào năm 1991. Đến năm 2017, con số này đã lên đến 7.596 USD/người, tăng 9,22% so với năm 2016 và ước đạt 8.279 USD/người năm 2018 [47], đưa Botswana vào nhóm các nước có mức thu thập trung bình cao (upper middle income country), có nền dân chủ ổn định và có tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh so với nhiều nước trên thế giới. Trong báo cáo The Developmental State in Africa - Problems and Prospects (Nhà nước kiến tạo phát triển ở châu Phi - Vấn đề và triển vọng) của Peter Meyns và Charity Musamba (và các cộng sự) năm 2010, các tác giả phân tích và nhận diện 04 đặc điểm cơ bản của Nhà nước kiến tạo phát triển dân chủ Botswana, đó là: Giới lãnh đạo chính trị có định hướng phát triển; Bộ máy hành chính hiệu lực, hiệu quả và tự chủ; Khu vực tư nhân có định hướng sản xuất; và Quản lý xã hội theo định hướng hiệu suất. Từ những phân tích đó, các tác giả kết luận, mặc dù Botswana phải đối mặt với những thách thức, khó khăn, nhưng với những trải nghiệm như là một nhà nước kiến tạo phát triển dân chủ, nhất là kiến tạo về thể chế, nhà nước này đã đạt được những thành tựu tăng trưởng trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Đó là những minh chứng thực tiễn cho triển vọng của một nhà nước kiến tạo phát triển dân chủ hiện thực trong xã hội hiện đại ở châu Phi.
Một trường hợp khác cũng khá thành công trong xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển dân chủ ở châu Phi là Ethiopia. Trong báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) năm 2012 với chủ đề "Dân chủ hóa trong nhà nước kiến tạo phát triển: Trường hợp của Ethiopia - Vấn đề, thách thức và triển vọng" (Democratization in a Developmental State: The Case of Ethiopia - Issues, Challenges and Prospects), quốc gia này được bàn đến như một trường hợp tiêu biểu của một đất nước nghèo thuộc nhóm các nước đang phát triển đã có những thành tựu đáng kể về tăng trưởng kinh tế và dân chủ hóa, phát triển xã hội. Theo báo cáo Chính phủ Ethiopia, vào năm 2012, nước này đã đạt được kết quả phát triển đáng khích lệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế 11% trong suốt 5 năm trước đó, cải thiện nhanh chỉ số phát triển con người (HDI) và quyết tâm trở thành một nhà nước kiến tạo phát triển dân chủ, hướng đến một xã hội có thu nhập trung bình và một nền kinh tế xanh vào năm 2025 (2025 is the "deadline" for achieving the goal of becoming a middle-income country in Ethiopia). Ethiopia tuyên bố họ đang theo đuổi con đường phát triển của đất nước với việc xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển và đẩy mạnh dân chủ. Trong bài phát biểu của mình ở Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chủ nghĩa liên bang ngày 13/12/2010, thủ tướng Meles Zenawi khẳng định: Chủ nghĩa liên bang dân chủ là một trong hai trụ cột cho sự phát triển đất nước của chúng ta, cùng với việc thành lập và củng cố một nhà nước kiến tạo phát triển hiệu quả, nó đã giúp chúng ta bắt đầu con đường dài của nền văn minh. Nhà nước Ethiopia hiện đại đã xây dựng tầm nhìn chiến lược về một hệ thống quản trị tốt cùng với việc củng cố các quy tắc dân chủ và bảo đảm công bằng xã hội dựa trên sự tự do của người dân. Tầm nhìn chiến lược đó được cam kết bởi các điều khoản trong "Kế hoạch tăng trưởng và chuyển đổi" (Growth and Transformation Plan - GTP) của Chính phủ năm 2010, trong đó nhấn mạnh mục tiêu "trở thành một quốc gia có chế độ dân chủ, quản trị tốt và công bằng xã hội, bảo đảm sự tham gia và ý chí tự do của các dân tộc, phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, xây dựng nền kinh tế có mức thu nhập trung bình vào năm 2020 - 2023".
Để xây dựng một thể chế chính trị "được thành lập trên cơ sở pháp quyền" nhằm phát huy dân chủ, tiến bộ và phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước Ethiopia đã ghi nhận định hướng phát triển dân chủ trong Hiến pháp Liên bang năm 1995, trong đó "tôn trọng tự do và các quyền tự do cơ bản của cá nhân và các dân tộc" là điều kiện cần thiết để đạt đến các mục tiêu trên. Một trong những những giá trị nổi bật của bản Hiến pháp là việc thừa nhận nguyên tắc về quyền tự quyết của các dân tộc, về sự bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các cá nhân và các nhóm. Đây được xem như những cơ sở hiến định để khắc phục tình trạng bất bình đẳng, mâu thuẫn liên quan đến các vấn đề sắc tộc và tôn giáo từng diễn ra ở quốc gia này trong nhiều thập niên qua, đồng thời thể hiện một khát vọng thiết lập một nền hòa bình, dân chủ - nền tảng để phát triển và phát triển bền vững. Ngoài ra, việc công nhận toàn bộ các quyền con người theo quy định của Công ước nhân quyền quốc tế vào trong bản Hiến pháp cũng thể hiện sự quyết tâm của nhà nước Ethiopia trong việc xây dựng một trật tự dân chủ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Điều này có nghĩa là, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước kiến tạo phát triển dân chủ dựa trên việc đảm bảo và thực thi đầy đủ các quyền con người là một trong những vấn đề cốt lõi để phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở Ethiopia.
Do vậy, nhà nước kiến tạo phát triển Ethiopia cần phải chính danh, có uy tín và đủ năng lực điều hành quá trình chuyển đổi chính trị và chuyển đổi kinh tế một cách triệt để hơn, phải đẩy mạnh và thực thi hiệu quả hơn nữa các chương trình nghị sự dân chủ, cũng như các chương trình phát triển của nhà nước, bởi lẽ trước đây, trong quá trình chuyển đổi dân chủ lâu dài và phức tạp, Ethiopia đã từng có giai đoạn chuyển đổi sang thể chế chính trị liên bang đa văn hóa, đa chủng tộc theo nguyên tắc tự trị và chia sẻ công bằng các nguồn lực và quyền lực, song quá trình đó không được thực hiện một cách đầy đủ và toàn diện. Vì thế, việc giải quyết những mâu thuẫn, những bất bình đẳng nảy sinh liên quan đến nguyên tắc này, cũng như sự chia sẻ cơ hội phát triển giữa các nhóm, các cộng đồng dân tộc trong suốt quá trình chuyển đổi dân chủ ở Ethiopia đã trở những thành thách thức không nhỏ đối với nhà nước này trong việc tạo lập đồng thuận xã hội. Đó là chưa kể đến các vấn đề khác cần phải tập trung giải quyết như những khó khăn trong việc vượt qua chế độ độc tài chuyển sang chế độ tự do, dân chủ với việc bảo đảm quyền con người, cũng như khả năng và mức độ tương thích giữa mô hình nhà nước kiến tạo phát triển đang được tìm kiếm, thể nghiệm và thiết lập với chế độ dân chủ theo hiến định gắn với thực tiễn chính trị đa văn hóa, đa chủng tộc của Ethiopia; những vướng mắc trong việc xây dựng một nhà nước có năng lực với nền hành chính phục vụ hiệu quả và đội ngũ công chức chuyên nghiệp, có kỹ năng thực thi công vụ; những thách thức trong quá trình dân chủ hóa như cải cách, đổi mới chính trị, phát huy sự tham gia toàn diện của người dân vào công việc của nhà nước, thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch, thực thi các quyền tự do cũng như trong việc mở cửa, tự do hóa nền kinh tế và huy động hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội, v.v…
Rõ ràng, việc xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển Ethiopia đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và dân chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa là một quá trình không đơn giản, một mặt, nó đòi hỏi nhà nước Ethiopia cần tránh cách tiếp cận cứng nhắc trong giải quyết những khó khăn, thách thức của mình, mặt khác, nó cũng chứng thực rằng, dân chủ hóa và sự phát triển không loại trừ lẫn nhau, mà ngược lại, dân chủ hóa là nền tảng để phát triển và sự phát triển là điều kiện cơ bản để phát huy dân chủ. Từ nghiên cứu trường hợp của Ethiopia, báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (2012) cũng chỉ ra rằng, một nhà nước kiến tạo phát triển "cứng rắn" với một tầm nhìn phát triển mạnh mẽ, với thể chế, cơ chế cho phép nhà nước đó có năng lực, tự chủ và đóng vai trò quan trọng, tích cực trong việc can thiệp có hiệu quả vào nền kinh tế, vẫn có thể sáng tạo, đột phá trong việc xem xét các chương trình nghị sự dân chủ. Do vậy, để có được năng lực quản lý quốc gia hiệu quả trong một thế giới đang chuyển đổi, nhà nước kiến tạo phát triển Ethiopia phải có sự đổi mới và sáng tạo theo hướng dân chủ, pháp quyền để vừa chủ động can thiệp phù hợp vào thị trường, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vừa phát huy sâu rộng hơn nền dân chủ ở Ethiopia.
Như vậy, các nhà nước kiến tạo phát triển dân chủ ở Botswana và Ethiopia đã có sự thay đổi, điều chỉnh trong chính sách can thiệp đối với nền kinh tế, không mạnh mẽ, độc đoán như các nước Đông Á, mà dựa trên dân chủ, pháp quyền gắn với việc phát huy năng lực và tính tự chủ của nhà nước, thúc đẩy sự tăng trưởng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay.
NCS. HỨA HUY HOÀNG
Đại học Luật Hà Nội