Giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quyết tâm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc

CT&PT - Nhân dịp kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2023) - Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc - đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có bài viết: "Giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quyết tâm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc". Tạp chí Chính trị và Phát triển trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư.

Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam.

Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng cách mạng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ, tổ chức lực lượng quần chúng thành một khối thống nhất có tổ chức, tạo thành sức mạnh vĩ đại trong công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, tự do, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay - đó là Mặt trận Dân tộc thống nhất, nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với các hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau phù hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ, vai trò và sứ mệnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn là nòng cốt đoàn kết, là ngôi nhà chung của toàn dân tộc, là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu của các giai tầng xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài... Đó là sứ mệnh chính trị cao cả, nặng nề, khó khăn, phức tạp, nhưng rất vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới với mục tiêu phấn đấu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI, đòi hỏi phải tiếp tục phát huy tiềm năng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành nguồn sức mạnh to lớn, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa... ở một tầm cao mới, cùng với hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trong bối cảnh thế giới biến động phức tạp, khó lường, cơ hội và thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc và công tác mặt trận. Chúng ta phải hiểu như thế nào cho đúng về nội hàm đại đoàn kết toàn dân tộc? Phải làm gì để giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, sự lãnh đạo của Đảng, vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?

Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh, trước những bước ngoặt lớn của lịch sử với mục tiêu lớn lao của đất nước, nếu biết khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang.

Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc, bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước

Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, tinh thần đoàn kết bắt nguồn từ tình yêu quê hương, xứ sở, nơi “chôn nhau, cắt rốn”, lòng yêu nước thương nòi của mỗi người con đất Việt đã trở thành giá trị văn hóa của dân tộc, thành di sản tinh thần được ông cha ta trao truyền lại cho muôn đời sau. Truyền thống đó luôn luôn được giữ gìn, bồi đắp và phát triển, đúc kết thành những bài học kinh nghiệm như: “Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”; hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Bắc Nam là con một nhà/Là gà một mẹ, là hoa một cành/Nguyện cùng biển thẳm non xanh/Thương nhau nuôi chí đấu tranh cho bền”... Trong lịch sử dân tộc, thời nào đất nước phú cường, cơ nghiệp vững chắc thì đều do triều đình biết dựa vào dân, đoàn kết muôn dân, có sự đồng lòng ủng hộ của toàn dân. Ngược lại, khi đất nước phân tranh, lòng dân ly tán, oán thán, thì vận nước suy tàn. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chỉ ra căn nguyên sâu xa làm nên thắng lợi của vua tôi nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên xâm lược ở thế kỷ XIII là: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức”1.

Đại đoàn kết toàn dân tộc từ truyền thống trở thành triết lý chính trị thân dân của ông cha ta với quan điểm “Quốc dĩ dân vi bản”, tức là nước phải lấy dân làm gốc (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Triết lý thân dân có nhiều yếu tố tiến bộ, là cội nguồn tạo thành sức mạnh giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, trường tồn trước những biến thiên của lịch sử, để “Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (Non sông nghìn thuở vững âu vàng) như khẳng định của vua Trần Nhân Tông.

Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại huy hoàng bậc nhất về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Người đã sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”3...

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở nhân dân: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”4, đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”5. Người căn dặn, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta trong mọi giai đoạn cách mạng luôn luôn khẳng định: Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu, là đường lối chiến lược của Đảng; là cội nguồn sức mạnh, là giá trị cốt lõi và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng và nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc làm điểm tương đồng.

Bước phát triển tư duy lý luận và sự lãnh đạo của Đảng về đại đoàn kết và xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Kế thừa, phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống của dân tộc trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đổi mới, phát triển tư duy về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đổi mới tư duy lý luận giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của vấn đề đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng cách mạng, đường lối chiến lược có ý nghĩa sống còn, bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Ngay sau khi đất nước thống nhất, tại Đại hội IV (tháng 12/1976), Đảng ta đã nhấn mạnh phải “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”6, xây dựng chế độ làm chủ tập thể trong đó người làm chủ là nhân dân lao động, có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này đã được Đại hội V của Đảng (tháng 3/1982) khẳng định: “tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân tộc”7. Đến Đại hội VI - Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (tháng 12/1986), Đảng đã có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới, trong đó có vấn đề đại đoàn kết toàn dân như: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”8. Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: một là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hai là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đến Đại hội VIII (tháng 6/1996), Đảng ta một lần nữa khẳng định vai trò của nhân dân: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”9. Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”10. Đến Đại hội X (tháng 4/2006), Đảng ta chỉ rõ nhiệm vụ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội, coi đó là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”11. Đến Đại hội XI (tháng 01/2011), Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”12. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”13. Đại hội XII (tháng 01/2016) nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”14. Đại hội XIII của Đảng (tháng 01/2021) đã bổ sung phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; khẳng định tiếp tục “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân”15. Đại hội cũng khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Như vậy, từ chỗ chỉ nói đoàn kết, rồi nói đại đoàn kết toàn dân, rồi phát triển lên thành đại đoàn kết toàn dân tộc là những cột mốc đánh dấu sự đổi mới và phát triển quan trọng về tư duy nhận thức và lý luận đối với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta, theo chiều hướng ngày càng mở rộng về biên độ, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ còn những “xơ cứng” đến ngày càng cởi mở hơn. Có những thời điểm, chúng ta giải quyết còn chưa thật thấu đáo một số vấn đề, làm ảnh hưởng đến việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đến khả năng tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc phù hợp với cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp, tương quan lực lượng và đặc điểm của nước ta qua các thời kỳ. Tuy nhiên, với tinh thần cầu thị, nghiêm túc nhìn thẳng vào những hạn chế, đồng thời “thật thà” và “chân thành” như căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xử lý các mối quan hệ của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đã kịp thời sửa chữa những thiếu sót, nhận diện và giải quyết những vấn đề mới phát sinh, nhân lên những mô hình tốt, cách làm hay, nhờ đó, khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng thêm mở rộng và đi vào chiều sâu.

Những kết quả nổi bật trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian qua

Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền; quan tâm phát triển toàn diện khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội...

Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố, mở rộng và phát huy; đồng thuận xã hội được tăng cường, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và nhân lên; các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động được đẩy mạnh, qua đó động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, huy động được những nguồn lực, tiềm năng to lớn trong nhân dân vào phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Tăng cường đoàn kết quốc tế, tạo không gian quan hệ mở rộng, tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, trên cơ sở triển khai đồng bộ và toàn diện đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, phát triển quan hệ tốt đẹp với nhiều chính đảng, chính phủ, quốc hội các nước, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Công tác đối ngoại nhân dân góp phần quan trọng nâng cao vị thế, uy tín của Đảng và đất nước, sự coi trọng của các nước đối với Việt Nam; tranh thủ nhiều nguồn lực từ bên ngoài cho sự phát triển của đất nước, trong đó có nguồn lực quan trọng của người Việt Nam ở nước ngoài; tích cực bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, tham gia đấu tranh với những âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực liên quan đến chủ quyền, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền... 

Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng ta và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể đồng bào, cả người dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài với ý chí, quyết tâm cao, phát huy cao độ tinh thần đoàn kết đã vững vàng vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn. Trong gian khó, tinh thần yêu nước, nghĩa đồng bào, truyền thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy và nâng lên một tầm cao mới.

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng vững chắc trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trên nền tảng của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, Đảng ta đã không ngừng mở rộng sự đoàn kết đối với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội. Các giai tầng trong xã hội (giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, doanh nhân, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, đồng bào tín đồ các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài) phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Trong bối cảnh cơ cấu xã hội, cơ cấu các giai tầng có nhiều thay đổi, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân luôn được quan tâm, bảo đảm hài hòa. Chất lượng của nền hành chính nhà nước đã được cải thiện theo phương châm “phục vụ dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình”; hiệu quả phục vụ người dân và doanh nghiệp có nhiều tiến bộ, mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp được nâng lên.

Dân chủ xã hội ngày càng mở rộng, dân trí ngày càng cao. Dân chủ được thực hành ngày càng thực chất và rộng rãi; từng bước phát huy vai trò của nhân dân trong quyết định các vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm; chú trọng nâng cao dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp, nhất là dân chủ ở cơ sở được thể chế hóa từ Pháp lệnh thành Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hoạt động đối thoại với nhân dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo được quan tâm và đề cao; người đứng đầu cấp ủy, chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, lắng nghe, xem xét những ý kiến, kiến nghị, bức xúc của nhân dân. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được thực hiện ngày càng rộng rãi. 

Đoàn kết, thống nhất trong Đảng được giữ vững, tăng cường, làm nòng cốt lãnh đạo và là hạt nhân, cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh được đặc biệt coi trọng, kiên trì thực hiện, đạt được những kết quả quan trọng. Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt, đồng bộ; kiên quyết, kiên trì xử lý nghiêm tổ chức, đảng viên vi phạm, nhiều vụ án tham nhũng được xét xử kịp thời, nghiêm minh, song cũng rất nhân văn, qua đó tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục phát huy vai trò là nòng cốt chính trị trong tổ chức vận động, tập hợp, quy tụ các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội; có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, triển khai sâu rộng và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động; sâu sát với cơ sở; đa dạng hóa các hình thức vận động nhân dân, lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân làm trọng tâm, góp phần giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình phát triển. Mặt trận và các tổ chức thành viên thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; làm tốt công tác dân vận và cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, đoàn kết nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận những mặt còn hạn chế, có giải pháp khắc phục nhằm phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là: Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở một số lĩnh vực, địa bàn kết quả chưa cao; một số cơ chế, chính sách chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, chậm sửa đổi, bổ sung. Một số cấp ủy, chính quyền còn thiếu sâu sát trong việc nắm bắt tình hình nhân dân và giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh tại cơ sở; huy động, phát huy đầy đủ, hiệu quả các nguồn lực trong nhân dân. Đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn; chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các vùng, miền, khu vực chưa được thu hẹp. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chậm được cụ thể hóa; quyền làm chủ của nhân dân, nhất là ở một số cơ sở chưa được phát huy đầy đủ; mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân có lúc, có nơi chưa thực sự chặt chẽ.

Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng còn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình; chưa phát huy hết vai trò tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội có lúc còn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu do thực tiễn đặt ra; hiệu quả của một số cuộc vận động, phong trào thi đua chưa cao...

Bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường hơn so với dự báo; thời cơ, thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức. Xu hướng đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh, mâu thuẫn, bất đồng, xung đột tại một số khu vực tác động đến cục diện quốc tế, trong đó có Việt Nam.

Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, cũng xuất hiện nhiều vấn đề mới, chưa có tiền lệ. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã tác động đến các giai cấp, tầng lớp, cũng như mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp với nhau; gia tăng chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các khu vực, vùng, miền. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… để tăng cường chống phá nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải chung sức, đồng lòng, có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, tranh thủ mọi thời cơ, huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại, phấn đấu xây dựng đất nước cường thịnh, phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tham gia tích cực vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Việc huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy, phương thức vận động, quy tụ, tập hợp các lực lượng, cần thiết phải có những nhân tố, mục tiêu mới phù hợp với sự phát triển của đất nước cũng như của thời đại, nhằm đoàn kết bền chặt, vững chắc, thực chất và hiệu quả hơn.

Thực tiễn đã chứng minh, để phù hợp với những yêu cầu, nhiệm vụ trung tâm khác nhau trong mỗi giai đoạn cách mạng, đòi hỏi phải xác định điểm tương đồng, “mẫu số chung” - cơ sở quan trọng và vững chắc để khơi dậy, phát huy và quy tụ lòng người, tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp, các tôn giáo, dân tộc, huy động mọi lực lượng trong nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm bắt đúng và trúng những nhiệm vụ trung tâm và yêu cầu đặt ra với cách mạng, kịp thời lãnh đạo Mặt trận đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm phát huy năng lực thu hút, tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội, do vậy Mặt trận luôn luôn khẳng định được vai trò quan trọng của mình.  

Từ khi Đảng được thành lập, lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhờ xác định cơ sở quan trọng và vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc chính là đánh đuổi ngoại xâm, chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ hòa bình. Đảng ta đã linh hoạt và nhạy bén thành lập và tổ chức các hình thức mặt trận với khẩu hiệu đấu tranh, tên gọi, chủ trương... phù hợp để vừa đoàn kết mọi lực lượng tiến bộ, vừa phân hóa, cô lập kẻ thù. Đó là: Hội Phản đế đồng minh (tháng 11/1930), Hội Phản đế liên minh (tháng 3/1935), Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (tháng 10/1936), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (tháng 3/1938), Mặt trận Dân tộc Thống nhất phản đế Đông Dương (tháng 11/1939), Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh, tháng 5/1941), Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt, tháng 5/1946), Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt, tháng 3/1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 5/1955), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (tháng 12/1960), Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (tháng 4/1968) và từ năm 1977 đến nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, vận dụng và quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tập hợp được đông đảo nhân sĩ, trí thức, các tầng lớp nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần, chính kiến, trong đó có nhiều trí thức, nhà khoa học tài năng người Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, sẵn sàng về nước tham gia kháng chiến, kiến quốc, đóng góp công sức, trí tuệ cho đất nước. Không chỉ là đoàn kết trong nước, chúng ta còn giương cao ngọn cờ chính nghĩa, làm tốt công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, do vậy đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ rộng lớn, mạnh mẽ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến giành lại độc lập, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.

Lịch sử cách mạng đã để lại nhiều bài học quý về xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là nhạy bén trong xác định những mục tiêu chung, điểm tương đồng của các giai tầng trong xã hội để tập hợp, đoàn kết được rộng rãi nhất lực lượng nhân dân. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, cơ sở, mục tiêu nào là điểm tương đồng để quy tụ, khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc?

Đó chính là mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, phấn đấu đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân, huy động mọi nguồn lực, tranh thủ mọi thời cơ, sự đóng góp của nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là mục tiêu lớn nhất, nếu biết khơi dậy đúng cách sẽ có sức cuốn hút, lay động lòng người, là lời hiệu triệu toàn dân, nhân lên lòng tự hào, tự tôn, ý chí của cả dân tộc.

Đó còn là việc kết hợp đại đoàn kết toàn dân tộc với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng những cơ chế phù hợp, khả thi. Thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nêu cao tinh thần tự quản trong cộng đồng, hòa giải và giải quyết mâu thuẫn ngay từ cơ sở... nhằm tăng cường đồng thuận xã hội, dân chủ và đoàn kết.

Đó là việc lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của mọi chiến lược phát triển, tôn trọng quyền con người, quyền công dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải hợp lòng dân, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân. Dựa vào dân, bồi dưỡng sức dân, động viên toàn dân, phát huy sức sáng tạo của nhân dân luôn luôn là kế sâu, gốc bền của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đó là giải quyết đúng đắn, hài hòa các mối quan hệ trong xã hội, nhất là quan hệ về lợi ích giữa các thành viên trong xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp; linh hoạt trong xử lý hài hòa các mối quan hệ: dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, chiến lược và sách lược, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích cá nhân và cộng đồng trong điều kiện mới, đồng thời quan tâm đến những khó khăn, những đối tượng yếu thế trong xã hội.

Đó là việc xóa bỏ mặc cảm, gác lại quá khứ, hướng tới tương lai; chấp nhận và tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Tổ quốc là máu thịt, là nguồn cội của tất cả “con Lạc, cháu Hồng”, luôn luôn mở rộng vòng tay với mọi người con đất Việt thật tâm mong muốn đóng góp công sức, trí tuệ vào gánh vác việc nước.

Đó còn là đoàn kết, thống nhất trong Đảng - cơ sở, hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết”16; “Kinh nghiệm của ta, cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi là do lực lượng đoàn kết, trước hết là đoàn kết trong Đảng17. Chỉ khi làm tốt công tác xây dựng Đảng, Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” thì nhân dân mới thật sự tin tưởng, đoàn kết, ủng hộ, phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp chung dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Những nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời gian tới

Trong bối cảnh đất nước ta đang có nhiều thời cơ, vận hội và nguy cơ, thách thức đan xen, hơn lúc nào hết, bài học về đoàn kết, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên quan trọng, đòi hỏi phải được nâng lên một tầm cao mới. Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số điểm sau đây:

Thứ nhất, giữ vững vai trò tiên phong, hạt nhân lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị trong xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ mới.

Việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”18. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương để Nhà nước kịp thời ban hành chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp, động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi lực lượng trong xã hội phát huy tinh thần yêu nước, sức sáng tạo, năng động, tích cực tham gia các phong trào thi đua, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời đoàn kết với nhân dân thế giới.

Để có đủ khả năng, uy tín lãnh đạo cách mạng, tổ chức, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng phải không ngừng tự chỉnh đốn, tự đổi mới, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng là điều kiện tiên quyết để Đảng thật sự là hạt nhân đoàn kết của cả dân tộc, của toàn xã hội.

Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời Đảng cũng là thành viên trong Mặt trận, do đó, Đảng không thể đứng ngoài để lãnh đạo Mặt trận, mà phải thông qua hiệp thương dân chủ để nhân dân đồng tình, ủng hộ, đồng thuận cùng thực hiện thành công mọi nhiệm vụ.

Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, không ngừng củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Có cơ chế hữu hiệu để nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên. 

Cần làm tốt công tác dân vận, chú trọng tuyên truyền, giáo dục các tổ chức, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về truyền thống đoàn kết, về chủ trương, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta trong điều kiện mới. Việc vận động, thuyết phục các tầng lớp nhân dân phải bằng lý luận sâu sắc, kết quả thực tiễn rõ ràng, cơ sở pháp lý đầy đủ; bằng sự chân thành, tôn trọng, bằng sự lắng nghe, cầu thị.

Tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức vận động nhân dân, sử dụng có hiệu quả các phương tiện truyền thông hiện đại trong tuyên truyền, giáo dục, kết nối, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, lắng nghe, phản ánh kịp thời các ý kiến đóng góp của nhân dân. Kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm huy động mọi nguồn lực, phát huy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, sức sáng tạo của các giai tầng xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn và xu thế của thời đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới nhằm tăng cường, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Khơi dậy, phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người Việt Nam vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, Mặt trận Tổ quốc phải làm tốt vai trò là nòng cốt, phối hợp với các tổ chức thành viên, đoàn kết các giai tầng, các cá nhân tiêu biểu trong các giới đồng bào, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài, động viên nhân dân phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước. 

(1) Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh về số lượng và chất lượng; có bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu rộng.

(2) Phát huy vai trò trung tâm, chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới, theo hướng “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”. Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa, phẩm chất truyền thống tốt đẹp, vừa có phẩm chất, tư duy, kiến thức mới, trình độ, năng lực sản xuất, kinh doanh thích ứng với cuộc cách mạng xanh, nông nghiệp hiện đại. 

(3) Xây dựng đội ngũ trí thức - các nhà khoa học, văn nghệ sĩ ngày càng lớn mạnh, xứng tầm là “nguyên khí quốc gia”, phát huy vai trò, trách nhiệm và năng lực của trí thức trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tôn trọng, phát huy tự do tư tưởng, học thuật, thực hành dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và sáng tạo; trọng dụng nhân tài, trí thức có trình độ cao, trí thức tinh hoa theo tinh thần Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII của Đảng.

(4) Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, đóng góp tiên phong và tích cực vào xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ doanh nhân có tầm nhìn, trí tuệ, đạo đức, tinh thần kinh doanh, làm giàu chính đáng, năng động, sáng tạo, năng lực quản trị tiên tiến, tuân thủ pháp luật, có đạo đức, văn hóa kinh doanh mang bản sắc dân tộc; có trách nhiệm xã hội, ý thức bảo vệ môi trường, đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu phát triển đất nước.

(5) Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng cống hiến vì Tổ quốc; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học - công nghệ hiện đại trong kinh tế số, xã hội số.

(6) Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới, phát huy truyền thống trung hậu, đảm đang, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần vươn lên của phụ nữ Việt Nam. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, trẻ em, coi trọng vấn đề giới và bình đẳng giới.

(7) Động viên cựu chiến binh phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống, làm giàu hợp pháp. Tăng cường vai trò của cựu chiến binh trong giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng.

(8) Phát huy uy tín, kinh nghiệm của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình. Kính trọng, bảo vệ, chăm sóc, có cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực để phát huy và chăm lo người cao tuổi; khuyến khích người cao tuổi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội; bảo trợ, giúp đỡ người cao tuổi gặp khó khăn, cô đơn không nơi nương tựa.

(9) Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, phát huy nội lực giúp nhau vươn lên cùng phát triển. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế - xã hội. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số. Kịp thời đấu tranh với những âm mưu, hành động chia rẽ khối đoàn kết giữa các dân tộc.

(10) Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đồng hành cùng dân tộc, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm các tôn giáo hoạt động bình đẳng theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận.

(11) Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, lưu học sinh... Có chính sách đột phá để thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, đất nước, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

(12) Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm rõ những yếu tố tác động đến sự phân hóa, biến động mới của các giai tầng xã hội; làm rõ nội hàm và những đặc điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc, về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và nội dung cốt lõi của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong tình hình mới; xây dựng và triển khai Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng thật sự đại diện và bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. 

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Phát huy hiệu quả vai trò chủ trì hiệp thương dân chủ của Mặt trận trong phối hợp và thống nhất hành động với các tổ chức thành viên và các tổ chức khác có liên quan.

Mặt trận vừa củng cố, tập hợp các thành viên nòng cốt, vừa mở rộng, thu hút ngày càng đông đảo các tổ chức xã hội. Cần đổi mới phương thức vận động, tập hợp của tổ chức mặt trận theo hướng phong phú, thiết thực, sinh động, trở thành diễn đàn nhân dân, nơi các tầng lớp nhân dân thuộc các giới, giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài... gặp gỡ, trao đổi thông tin, bày tỏ chính kiến, tâm tư, nguyện vọng, đối thoại dân chủ, cởi mở. Làm tốt công tác dân vận, đồng thời đổi mới hoạt động, tăng cường tính thiết thực, hiệu quả của tổ chức mặt trận sẽ thu hút nhiều hơn sự tham gia của các tổ chức xã hội, các cá nhân tiêu biểu ở trong và ngoài nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần “hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư”, đi sâu, đi sát vào các tầng lớp nhân dân, tìm hiểu nhu cầu của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia giám sát và phản biện xã hội. Chỉ có nắm được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân mới có thể đại diện và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp và bổ sung, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận. Làm tốt phong trào “dân vận khéo”, vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục đi vào thực chất, có trọng tâm, trọng điểm, như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hoạt động của Mặt trận nên nhằm vào điểm chính để tránh khỏi việc gì cũng làm, nhưng ít việc làm chu đáo”19. Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả, tạo sức lan tỏa rộng khắp, hướng mạnh về cơ sở để người dân trực tiếp tham gia, thực sự là chủ thể và nỗ lực thực hiện. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách về thi đua, khen thưởng nhằm kịp thời động viên, biểu dương những mô hình, gương điển hình tiêu biểu, qua đó góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước.

Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, chủ thể, nguồn lực, động lực chủ yếu, là mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động là hiệp thương dân chủ để đi đến thống nhất hành động, do đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phát huy cao độ dân chủ, để mọi sự khác biệt không trái với lợi ích chung đều cần được tôn trọng, lắng nghe, bàn thảo và thống nhất, “cầu đồng tồn dị”, không áp đặt, ép buộc. Mặt trận cần phát huy dân chủ, thân ái trao đổi, bàn bạc, bảo đảm sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; mặt trận các cấp phải thật sự là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội, là nơi mọi người có thể nói lên tiếng nói, nguyện vọng của mình, đóng góp trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dân chủ đồng thời phải gắn liền với nguyên tắc, kỷ cương, tuân thủ Điều lệ, Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đối với những hành vi vi phạm, phi dân chủ, lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước thì kiên quyết xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

Mở rộng thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp, nhất là dân chủ ở cơ sở và cộng đồng dân cư, dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và nhân dân tự quản. Phát huy vai trò tự quản của nhân dân trong cộng đồng dân cư, thôn, bản, tổ dân phố. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, hình thức phù hợp để nhân dân tham gia ý kiến đối với các vấn đề lớn, quan trọng của đất nước; bảo đảm nhân dân tham gia tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định trực tiếp liên quan đến lợi ích, cuộc sống của người dân.

Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa, hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” gắn với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”; làm rõ nội hàm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”20.

Thứ năm, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Với vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận phối hợp với Nhà nước cùng thực hiện đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng. Để thực hiện sự phối hợp đó, Mặt trận phải tham gia xây dựng, bảo vệ, giám sát Nhà nước, để Nhà nước làm tốt vai trò “công bộc” của nhân dân.

Mặt trận và các tổ chức thành viên phối hợp với chính quyền bằng các quy chế, chương trình, kế hoạch để tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị thực hiện nhiệm vụ chung. Để sự phối hợp chặt chẽ, bền chặt, tạo điều kiện cho Mặt trận và các tổ chức thành viên thực hiện tốt vai trò của mình, các cơ quan nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo mọi điều kiện tốt nhất để nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia có hiệu quả vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội; hoàn chỉnh cơ sở pháp lý cho các hoạt động của Mặt trận và các tổ chức thành viên.

Mặt trận không làm nhiệm vụ quản lý nhà nước hoặc hỗ trợ quản lý nhà nước, song có nhiệm vụ tham gia góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện cơ chế này, đồng thời làm tốt việc giám sát, phản biện xã hội, kiểm soát quyền lực, bảo đảm đúng đắn, hiệu quả, hợp lòng dân.

Tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, làm cơ sở để có những điều chỉnh, bổ sung về cơ chế, chính sách để việc giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ngày càng thực chất, hiệu quả, là một phương thức thể hiện rõ quyền làm chủ của nhân dân và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng có năng lực, uy tín, tâm huyết, trách nhiệm, hết lòng vì công việc chung.

Cán bộ mặt trận các cấp, trước hết là cán bộ chuyên trách, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, tâm huyết với sự nghiệp đoàn kết toàn dân tộc, có năng lực, có uy tín, hoàn thành tốt công tác dân vận, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân. Cán bộ mặt trận là những người tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, cho nên phải “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Cán bộ mặt trận và đoàn thể cần có phẩm chất dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách vì lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng thời là những tấm gương về sự tận tâm, tận tụy, trách nhiệm, hết lòng hết sức với công việc, ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ.

Cán bộ mặt trận phải luôn luôn ghi nhớ rằng, nhân dân chỉ nghe theo, tin theo mình khi nhân dân thật sự tin tưởng mình, khi cán bộ mặt trận thật sự là những tấm gương thuyết phục nhất. Do đó, mỗi cán bộ mặt trận phải thường xuyên rèn luyện mình, tu dưỡng đạo đức, phải trở thành những tấm gương sáng để dân mến, dân thương, dân tôn trọng và dân được nhờ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các hội thành viên, các cơ quan làm công tác vận động nhân dân cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mặt trận, đoàn thể có đủ năng lực tập hợp quần chúng, có sức ảnh hưởng rộng và có uy tín với quần chúng. Đó là công tác hệ trọng, khó khăn, cần có kế hoạch chuẩn bị lâu dài với tầm nhìn toàn diện, có tính chiến lược.

Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mà là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Do đó, mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên phải lấy an dân làm cốt, lấy lợi ích của nhân dân làm trung tâm, xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sự đồng thuận của nhân dân. Kinh nghiệm cho thấy, việc lãnh đạo xây dựng những người tiêu biểu xứng đáng là ngọn cờ tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân là một việc làm rất công phu, tỉ mỉ, một công việc mang tính đặc thù và không thể thành công nếu không xuất phát từ tâm sáng, lòng trong, vì nước, vì dân.

*
*      *

Thực tiễn đã cho chúng ta bài học thật sâu sắc, rằng bất cứ công việc gì, dù lớn hay nhỏ, muốn thực hiện thành công, nhất thiết phải có sự đoàn kết, có sự đồng tâm hiệp lực, nội bộ nhất trí, toàn dân đồng thuận; cách mạng muốn tiến lên càng phải xây dựng được khối đoàn kết vững chắc. Với quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, tôi tin tưởng và mong rằng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt chính trị, hạt nhân đoàn kết, hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình, khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin và khát vọng phát triển, để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.


1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2017, tr. 256.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh được suy tôn là Hội trưởng danh dự Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) vào tháng 5/1946; Chủ tịch danh dự Mặt trận Liên Việt vào tháng 3/1951; Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào tháng 9/1955.

3, 4, 17, 19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 13, tr. 120; t. 10, tr. 453; t. 12, tr. 35; t. 7, tr. 48.

5, 16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 244, 368.

6, 7, 8, 9, 10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 507; t. 43, tr. 132; t. 47, tr. 362; t. 55, tr. 360; t. 60, tr. 132; t. 65, tr. 212.

12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 240, 86.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 159.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 165.

18, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173.

NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin