Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng đối với công an nhân dân, góp phần chủ động bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới

Trần Ngọc Anh

Thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng Việt Nam trong 92 năm qua đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền duy nhất ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với Công an nhân dân đã góp phần chủ động bảo vệ an ninh, trật tự; tích cực xây dựng lực lượng Công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, thật sự trong sạch, vững mạnh, luôn xác định “còn Đảng thì còn mình”, sẵn sàng dấn thân vào mọi khó khăn, gian khổ, chấp nhận hy sinh vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân

1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ sự cần thiết phải tổ chức lực lượng vũ trang nhằm giữ gìn và bảo vệ thành quả cách mạng, đồng thời khẳng định: ở đâu có tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang thì ở đó tất yếu phải có sự lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở kinh nghiệm của Công xã Pari (năm 1871), các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác chỉ rõ, sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản nhất thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng để bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng còn non trẻ của mình trước thế lực tư bản chủ nghĩa ngay tại nước mình vốn chưa chấp nhận thất bại mà tiếp tục chống phá cách mạng vô sản, đồng thời chống lại sức mạnh của chủ nghĩa tư bản tại các nước khác.

Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vai trò của vũ trang trong bảo vệ những thành quả cách mạng của giai cấp vô sản, V.I. Lênin chỉ rõ, phải tăng cường xây dựng sức mạnh vũ trang của cách mạng vô sản, phát huy sức mạnh vũ trang trong bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng vô sản thế giới. Từ thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, V.I. Lênin khẳng định: giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn, phức tạp hơn nhiều, “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ, nhưng không phải cách mạng có thể biết ngay được cách tự vệ”1. Theo V.I. Lênin, điểm mấu chốt trong nhiệm vụ bảo vệ của lực lượng vũ trang cách mạng là phải bảo vệ chính quyền Xôviết, bảo vệ Đảng Bônsêvích, bảo vệ chế độ dân chủ vô sản, trong đó bảo vệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa phải đặt lên trên hết, trước hết.

Sức sống vĩ đại của học thuyết Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang được thể hiện rõ nét trong cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ thành quả của sự nghiệp cách mạng. Chỉ rõ quy luật xây dựng và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đồng thời lực lượng vũ trang nhân dân phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng về mọi mặt. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải xây dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào”2. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang thì ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng.

2. Công an nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; là lực lượng vũ trang cách mạng, mang bản chất giai cấp công nhân, trung thành, bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Trong Bài nói tại Hội nghị cán bộ ngành Công an (ngày 29/4/1963), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc bén của chuyên chính vô sản. Cho nên nhiệm vụ công an là cực kỳ quan trọng. Nó phải giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ cho nhân dân ta an cư lạc nghiệp”3. Tại buổi Lễ thành lập Công an nhân dân vũ trang (tháng 3/1959), Người yêu cầu: “Công an nhân dân vũ trang, hay là quân đội cũng thế, phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng từ trên xuống dưới. Nhất định phải như thế”4. Bởi lẽ, nếu tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng, Công an nhân dân sẽ mất phương hướng hoạt động, mất bản chất giai cấp, không còn là vũ khí sắc bén của Đảng. Điều này cũng trở thành nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt trong quá trình xây dựng và trưởng thành của lực lượng Công an nhân dân, bởi các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách và không từ bất kỳ thủ đoạn nào để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Ra đời trong khí thế vang dội của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các tổ chức tiền thân của Công an nhân dân Việt Nam nhanh chóng được thành lập để bảo vệ thành quả cách mạng. Ngay sau khi các tổ chức Công an ra đời, các cấp ủy đảng đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo các tổ chức này. Các địa phương đều cử cấp ủy viên phụ trách Công an. Sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy các địa phương đã giúp lực lượng Công an luôn bám sát đường lối đấu tranh chống phản cách mạng của Đảng, tích cực củng cố, xây dựng lực lượng để đảm đương nhiệm vụ bảo vệ chính quyền.

Trước những khó khăn, thử thách “thù trong, giặc ngoài” đối với một nhà nước non trẻ, để giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc, ngày 21/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL, thành lập Việt Nam Công an vụ trên cơ sở hợp nhất các sở cảnh sát và các sở liêm phóng trên toàn quốc, thống nhất tổ chức và nhiệm vụ của ngành Công an cả nước. Từ đây, các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, trị an trong cả nước được thống nhất với tên gọi Công an, tạo điều kiện cho sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đối với mặt trận bảo vệ an ninh, trật tự. Việt Nam Công an vụ ra đời đã tạo nên sức mạnh mới cho lực lượng Công an nhân dân trước yêu cầu của cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài ngày càng cam go, ác liệt. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, lực lượng Công an nhân dân sớm được kiện toàn về tổ chức với sự thành lập Chi bộ đảng ở Nha Công an Việt Nam vào tháng 4/1946, đánh dấu bước phát triển quan trọng về công tác xây dựng Đảng trong lực lượng Công an nhân dân. Đến tháng 11/1946, các sở, ty công an đều đã có chi bộ hoặc tổ đảng. Chi bộ ở Nha Công an Việt Nam và các chi bộ, tổ đảng của các sở, ty thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự và phát triển Đảng trong lực lượng Công an nhân dân, đồng thời làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nâng cao bản lĩnh chính trị, giành thắng lợi quan trọng trong cuộc tổng trấn áp phản cách mạng tại Hà Nội và miền Bắc5, làm thất bại âm mưu của thực dân Pháp cấu kết với các loại phản động, tay sai gây bạo loạn.

Ngay sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19/12/1946) và Trung ương Đảng, cùng với toàn Đảng và toàn dân, cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, gian khổ, hy sinh với quyết tâm sắt đá: “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Để động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu và xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Công an, tháng 3/1948, trong Thư gửi đồng chí Giám đốc Công an Khu XII, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Tư cách người công an cách mệnh”. Nội dung bức thư đã trở thành lời huấn thị đối với lực lượng Công an nhân dân, là chuẩn mực về đạo đức, phương châm hành động và thái độ ứng xử mà mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an dù ở bất kỳ đâu, trên cương vị và trong hoàn cảnh công tác nào cũng đều phải rèn luyện, phấn đấu thực hiện. Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân là di sản tinh thần vô giá, thể hiện đậm nét nhất tư tưởng của Người về xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, suốt đời vì nước, vì dân. Được khích lệ bởi sự yêu thương, quan tâm và những chỉ dạy quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân tích cực tham gia chiến đấu giam chân địch trong các thành phố, thị xã; bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các cơ quan, kho tàng của Nhà nước, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc an toàn tuyệt đối; phát huy sức mạnh toàn dân trong phong trào phòng gian, bảo mật, thi đua giết giặc lập công, bảo vệ nội bộ.

Ngày 16/02/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141/SL đổi Nha Công an thuộc Bộ Nội vụ thành Thứ Bộ Công an, do một Thủ trưởng phụ trách. Trước chuyển biến mạnh mẽ của cách mạng, tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ (diễn ra từ ngày 27 đến ngày 29/8/1953), Hội nghị quyết định đổi tên Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Ủy viên Trung ương Đảng được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Công an. Đây là bước phát triển mới về mặt tổ chức và xây dựng lực lượng của ngành Công an, nhằm đáp ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nha Công an Trung ương, lực lượng Công an toàn quốc hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác, liên tục tấn công địch, phá tề, trừ gian, tham gia bảo vệ các chiến dịch quân sự trong chiến cuộc Đông - Xuân (1953 - 1954), đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm gian khổ, hy sinh của dân tộc ta.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, lực lượng Công an nhân dân vừa ra sức xây dựng, phát triển lực lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững an ninh, trật tự, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa phát huy vai trò hậu phương lớn, đồng thời chi viện có hiệu quả cho an ninh miền Nam. Để phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chỉ trong một thời gian ngắn (từ tháng 01 đến ngày 29/4/1975), lực lượng Công an đã huy động ở mức cao nhất về lực lượng, vũ khí và phương tiện kỹ thuật chuyên ngành; chi viện 4.500 cán bộ có kinh nghiệm công tác, nâng tổng số cán bộ Công an chi viện cho chiến trường miền Nam lên hơn 11.000 đồng chí. Ngay sau khi Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bộ Công an tiếp tục điều động gần 1 vạn cán bộ, chiến sĩ tăng cường cho miền Nam, cùng lực lượng an ninh tại chỗ khẩn trương tiếp nhận, phân loại tài liệu địch để lại, truy tìm gián điệp cài lại, đồng thời làm tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh quyết liệt với bọn lưu manh, côn đồ và tội phạm hình sự khác, giữ vững và quản lý tốt an ninh, trật tự vùng mới giải phóng.

Sau năm 1975, đất nước được hòa bình, nhưng tình hình an ninh trong nước và tại khu vực biên giới vẫn có nhiều diễn biến phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng Công an nhân dân hiệp đồng chiến đấu cùng với Quân đội nhân dân và các lực lượng khác, chủ động khắc phục hậu quả chiến tranh; chủ động đánh bại các cuộc tiến công quy mô lớn của các thế lực thù địch ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả.

Bước vào thời kỳ đổi mới, lực lượng Công an nhân dân tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986): “Công an nhân dân phải được xây dựng thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy và tiến lên hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có cơ sở vững chắc trong quần chúng, có trình độ nghiệp vụ ngày càng cao, thật sự là công cụ tin cậy, sắc bén của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa”6, công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng trong Công an nhân dân được toàn lực lượng chú trọng thực hiện, góp phần tích cực nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong Công an nhân dân. Số lượng đảng viên trong toàn Đảng bộ Công an nhân dân ngày càng phát triển, từ 8.000 đảng viên (năm 1980) lên 14.171 đảng viên (năm 1986). Sự củng cố và phát triển của tổ chức đảng trong Công an nhân dân là cơ sở để Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 110-QĐ/TW, ngày 30/8/1990 thành lập Đảng ủy Công an Trung ương, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư và giao Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo mọi mặt công tác của ngành Công an. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự thay đổi căn bản về cơ chế lãnh đạo của Đảng và các cấp ủy trong Công an nhân dân. Từ đây, Đảng thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt (thông qua hệ thống tổ chức và cán bộ, đảng viên của Đảng trong Công an; Đảng lãnh đạo trực tiếp, không thông qua bất kỳ một bộ phận hay khâu trung gian nào; lãnh đạo toàn diện các nhiệm vụ, các mặt công tác, cả về tổ chức và hoạt động của lực lượng Công an theo quy định của Hiến pháp, pháp luật)7 đối với Công an nhân dân, đồng thời giao cho các cấp ủy, tổ chức đảng trong Công an nhân dân chức năng lãnh đạo mọi mặt công tác đối với các đơn vị thuộc quyền. Đây là bước phát triển mới về tư duy lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng Công an nhân dân.

Thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng Công an nhân dân, tại Quyết định số 110-QĐ/TW, ngày 30/8/1990, Bộ Chính trị phân công đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tham gia Đảng ủy Công an Trung ương. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Bộ Chính trị phân công các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước tham gia Đảng ủy Công an Trung ương và Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương; đồng thời, chỉ đạo các tỉnh ủy, thành ủy, quận ủy, huyện ủy, thị ủy chỉ định (hoặc phân công) đồng chí phó bí thư thường trực, chủ tịch ủy ban nhân dân tham gia hoặc phụ trách đảng ủy công an cùng cấp. Phát biểu tại Lễ công bố quyết định của Bộ Chính trị khóa XII về việc chỉ định Đảng ủy Công an Trung ương nhiệm kỳ 2015 - 2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Phải đặc biệt coi trọng và tập trung xây dựng Đảng bộ Công an Trung ương, các tổ chức đảng trong Công an nhân dân và lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Đảng và Tổ quốc, có năng lực lãnh đạo nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống”8.

Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Trung ương Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lực lượng Công an nhân dân ngày càng được củng cố và xây dựng vững mạnh, tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đổi mới sâu sắc, đồng bộ, toàn diện các mặt công tác công an9, luôn gương mẫu, đi đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao; luôn chủ động phân tích, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách, giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đồng thời hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân, các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Phát huy vai trò nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh, trấn áp làm giảm các loại tội phạm, giữ vững ổn định chính trị, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại của đất nước.

3. Trong thời gian tới, bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có cả những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, khó dự báo. Các thế lực thù địch đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình”, phá hoại tư tưởng, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, chia rẽ mối quan hệ gần gũi, gắn bó mật thiết giữa Công an nhân dân với Quân đội nhân dân; chia rẽ lực lượng Công an với nhân dân. Cùng với tác động của mặt trái kinh tế thị trường và những nguy cơ mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra, đòi hỏi phải tiếp tục bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện về mọi mặt đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, lực lượng Công an nhân dân cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt đối với lực lượng Công an nhân dân. Đảng ủy Công an Trung ương và các cấp ủy đảng trong Công an nhân dân phải luôn quán triệt và thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng về an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn liền với xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; lấy sự hài lòng của nhân dân làm thước đo năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, tính tiên phong, gương mẫu trong thực hiện nguyên tắc sinh hoạt đảng. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kịp thời và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng viên.

Thứ hai, đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân, trong đó chú trọng bồi dưỡng lập trường chính trị đúng đắn; giáo dục, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lòng trung thành, kiên định, vững vàng vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; khơi dậy khát vọng và phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và danh dự của lực lượng Công an nhân dân. Đặc biệt coi trọng giáo dục ý thức tự giác, tự phê bình và phê bình, đề cao tinh thần trách nhiệm trước tập thể, trọng danh dự, uy tín, bản lĩnh, không vụ lợi cá nhân, luôn đề cao cảnh giác, giữ vững lập trường tư tưởng trước sự tác động, lôi kéo, mua chuộc của các loại tội phạm.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân luôn phải nhận thức rõ bổn phận, trách nhiệm trung thành với Đảng, “Chỉ biết còn Đảng thì còn mình”, “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”; xác định rõ trách nhiệm nêu gương của cấp ủy, lãnh đạo chỉ huy và mỗi cán bộ, chiến sĩ trong tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày theo “Sáu điều Bác Hồ dạy”; cam kết không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đề cao tính tiên phong, gương mẫu, luôn đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Thứ tư, đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; thực hiện tốt việc trực ban, tiếp dân, tổ chức lấy ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức và nhân dân về tư thế, lễ tiết, tác phong, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ để có biện pháp quản lý, giáo dục, phòng ngừa sai phạm; nghiên cứu xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, chủ động phòng ngừa theo tinh thần “không thể, không muốn, không dám” vi phạm, nhất là đối với những địa bàn, lĩnh vực, vị trí công tác dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Chủ động phát hiện, xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân vi phạm những điều đảng viên và cán bộ, chiến sĩ không được làm, vi phạm điều lệnh, quy tắc ứng xử Công an nhân dân; ngăn chặn, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”.

Thứ năm, thực hiện nghiêm quy định nêu gương về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tự phê bình và phê bình; tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân. Thực hiện nêu gương hằng ngày, trong tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Việc nêu gương phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, nêu gương tại cơ quan, đơn vị, trong tiếp xúc với nhân dân, nêu gương trong gia đình và tại nơi cư trú. Thực hiện nêu gương theo tinh thần “trong trước, ngoài sau”, “trên trước, dưới sau”, “phát động đi đôi với hành động”, “nói đi đôi với làm”. Cấp trên nêu gương trước cấp dưới, người có cấp bậc hàm, chức vụ càng cao càng phải nêu gương; cán bộ, chiến sĩ nêu gương trước nhân dân.

Thứ sáu, tổ chức tốt công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác kịp thời, hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch. Phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên nền tảng mạng xã hội để lan tỏa gương người tốt, việc tốt, hành động dũng cảm, tận tụy, bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ. Biểu dương, khen thưởng, động viên, khích lệ kịp thời những tập thể, điển hình tiên tiến. Thực hiện tốt công tác dân vận, ủng hộ, giúp đỡ nhân dân theo tinh thần “gần dân, trọng dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với nhân dân”, “khi dân cần, khi dân khó, có Công an”.

Phát huy truyền thống anh hùng vẻ vang, mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân nguyện trung thành tuyệt đối với Đảng, nêu cao tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu; tận tụy với công việc, bản lĩnh, nhân văn trong thực hiện nhiệm vụ; sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.


1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 37, tr. 145.

2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 14, tr. 608, 71.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 153-154.

5. Ngày 12/7/1946, Nha Công an Việt Nam chỉ đạo trinh sát và công an xung phong bí mật, bất ngờ đột nhập vào trụ sở 132 phố Đuyvinhô (nay là phố Bùi Thị Xuân, Hà Nội) bắt bọn phản động, thu nhiều tài liệu, chứng cứ, kịp thời phá thành công vụ án số 7 Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội). Tại số nhà 80 phố Quán Thánh, lực lượng Công an bắt 30 đối tượng phản quốc và thu nhiều tài liệu. Tại các khu phố, nhân dân cùng Công an truy lùng bọn Quốc dân Đảng và bắt nhiều tên phản động đầu sỏ đang lẩn trốn. Trong cuộc truy quét phản cách mạng ở Hà Nội, lực lượng Công an bắt gần 100 tên, trong đó có nhiều tên nguy hiểm như: Phan Kích Nam, Nghiêm Kế Tổ, Phan Khôi. Theo Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Công an Trung ương: Lịch sử Đảng bộ Công an Trung ương (1945 - 2015), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 47.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 373.

7. Xem thêm: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 42-43.

8. Nguyễn Phú Trọng: Vững bước trên con đường đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, t. 2, tr. 431.

9. Bộ Công an đã kịp thời tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15/3/2018 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tham mưu, đề xuất Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2018/NÐ-CP, ngày 06/8/2018 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an. Đây là một bước quan trọng, đột phá nhằm tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Ðảng đối với Công an nhân dân, sắp xếp tổ chức bộ máy Công an nhân dân phù hợp, đồng bộ, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo hướng “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”; tham mưu Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/3/2022 về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đại tướng, GS, TS. TÔ LÂM

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin