Quan điểm về văn hóa của chủ tịch Hồ Chí Minh

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Ngay từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tư tưởng ấy đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Ngày nay, văn hóa là một trong những nguồn lực to lớn, yếu tố quan trọng trong tổng thể sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc học tập quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa là yêu cầu hết sức cấp thiết, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới đang biến đổi nhanh và mạnh mẽ, những nhận thức mới về giá trị cho phát triển bền vững ngày càng được định hình rõ nét.

CT&PT - Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Ngay từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tư tưởng ấy đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Ngày nay, văn hóa là một trong những nguồn lực to lớn, yếu tố quan trọng trong tổng thể sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc học tập quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa là yêu cầu hết sức cấp thiết, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới đang biến đổi nhanh và mạnh mẽ, những nhận thức mới về giá trị cho phát triển bền vững ngày càng được định hình rõ nét.

1. Trong những trang cuối của tập thơ Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.

Có thể nhận thấy, đây là cách tiếp cận văn hóa từ ý nghĩa khái quát, đặc trưng nhất, một định nghĩa cô đọng và chính xác về văn hóa. Nó là kết quả của quá trình trải nghiệm thực tiễn, nghiền ngẫm lâu dài trong sự nghiệp hoạt động chính trị - xã hội của một nhân cách văn hóa.

Ý thức và niềm tự hào về văn hóa đã được định hình trong tư tưởng của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm, ngay khi Người đang hoạt động ở Pháp, là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Ý thức về truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam đã được Người thể hiện trong Lời kêu gọi Hội Quốc Liên (ngày 30/8/1926): “Đó là một dân tộc được thành lập trên cơ sở thống nhất ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc, phong tục. Cuối cùng, theo lời thừa nhận của chính những nhân vật Pháp, từ thời viễn cổ, người Việt Nam đã có một văn hóa đạo đức cao2.

Sau khi thành lập nước Việt Nam mới (năm 1945), các phát biểu về định nghĩa văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh được cụ thể hóa: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”...; “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng, phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”3, đây là quan điểm thể hiện sự phát triển toàn diện của xã hội mới, theo đó, có năm vấn đề lớn trong xây dựng nền văn hóa dân tộc: “1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4- Xây dựng chính trị: dân quyền; 5- Xây dựng kinh tế”4. Theo Người: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”5. Đây là lý do văn hóa phải gắn với lao động sản xuất, gia tăng năng suất trên công trường, nhà máy, xí nghiệp để gắn kinh tế với văn hóa, mà phải là nền văn hóa mới, nền văn hóa của giai đoạn đất nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh. “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”6.

Ngày 24/11/1946, trong Diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”7.

Ngày 11/02/1960, tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng, Người yêu cầu: “Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất”8. Nền văn hóa mới phải khác với nền văn hóa thời trước, người nghệ sĩ cũng là chiến sĩ, nhà thơ cũng phải biết “xung phong”: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”9.

Theo quan điểm văn hóa và phân loại về văn hóa của UNESCO10, có thể thấy quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa được thể hiện ở 2 cấp độ, gắn với văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) và văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể).

Ở phương diện văn hóa vật thể: những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng được coi là văn hóa.

Ở phương diện văn hóa phi vật thể: những sáng tạo và phát minh về ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật được coi là văn hóa.

Hai phương diện văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đều biểu hiện những sáng tạo của con người và tạo ra giá trị của con người trong quá trình lịch sử - tự nhiên, thông qua lao động nhằm đáp ứng “lẽ sinh tồn”, và cũng là “mục đích của cuộc sống” con người.

Như vậy, có thể nói, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa có bản chất là sáng tạo, là phát minh của con người. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hóa.

Là danh nhân văn hóa thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được UNESCO đánh giá cao ở 3 cống hiến cho lĩnh vực văn hóa:

Thứ nhất, đề ra phong trào xóa mù chữ đầu tiên ngay sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945).

Thứ hai, phát động phong trào Tết trồng cây để nâng cao nhận thức của nhân dân trong bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái.

Thứ ba, văn hóa đối thoại là văn hóa ưu tiên. Liên hợp quốc coi Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề ra văn hóa đối thoại và thực thi văn hóa đối thoại.

Bên cạnh quan điểm, tư tưởng về văn hóa, Người còn là biểu tượng về nhân cách của người cầm quyền kiểu mới - vô cùng trong sáng, giản dị, hy sinh cuộc đời cho hạnh phúc của dân tộc, không mưu lợi cá nhân. Năm 1923, nhà thơ Nga Oxip Mandenxtan đã nhận định rằng: “Cả diện mạo Nguyễn Ái Quốc toát lên sự lịch thiệp và tế nhị. Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải như văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một văn hóa tương lai”11.

2. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã tạo ra nhằm thích ứng với nhu cầu của cuộc sống và đòi hỏi của “lẽ sinh tồn” trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn với nền nông nghiệp lạc hậu, dân tộc bị áp bức, bóc lột.

Văn hóa Việt Nam với những giá trị trường tồn được khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.

Là người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; … sự đóng góp quan trọng nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”12.

Giá trị văn hóa truyền thống phải được bảo tồn và tích hợp với giá trị của đời sống văn hóa mới hướng tới mục tiêu làm cho con người ngày càng trở nên tốt đẹp trên cơ sở loại bỏ những yếu tố lạc hậu. “Phải làm sao cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho nhân dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên hưởng13.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Gốc của văn hóa mới là dân tộc” và “phát triển hết cái hay cái đẹp của dân tộc, tức là ta cũng đi tới chỗ nhân loại”.. “văn hóa thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa của mình, và văn hóa của mình sẽ chiếm được một địa vị ngang với các nền văn hóa thế giới”... “mình có thể bắt chước những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu, Mỹ”... “Phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới”14.

Trên cơ sở những quan điểm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể nói, việc phân chia văn hóa theo quan điểm của Người thành hai loại là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể là hoàn toàn khoa học và hiện đại. Về cấu trúc, xuất phát từ lịch sử văn hóa Việt Nam, những quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến văn hóa sản xuất (chủ động, sáng tạo, cân đối trong lao động sản xuất ra của cải vật chất); văn hóa vũ trang (cụ thể hóa bằng quan điểm kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến, ); văn hóa sinh hoạt (ăn mặc ở đi lại, văn hóa nghệ thuật, tâm linh…)15 là đúng đắn. Trong Di chúc, Bác viết: “Đánh thắng giặc Mỹ rồi, thì những việc chính của cách mạng là làm thế nào giải quyết ngày càng tốt hơn nữa các vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, phòng và chữa bệnh… Tóm lại là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”16.

Như vậy, thông qua quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và việc giữ gìn, phát huy vốn văn hóa của dân tộc Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định:

- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã quan tâm tới văn hóa từ rất sớm và đưa ra khái niệm về văn hóa một cách khoa học, tiến bộ.

- Quan điểm về văn hóa là toàn bộ sáng tạo của con người, bao gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được thể hiện nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một ví dụ nêu gương.

- Những thực hành văn hóa và hiện thực hóa quan điểm về văn hóa, sự tiếp thu sáng tạo văn hóa thế giới đều thể hiện sự thấu hiểu, lòng nhân ái và nhân cách văn hóa lớn lao của Người.

- Văn hóa không chỉ là tiếp thu tinh hoa quá khứ, xử lý tốt mối quan hệ trong hiện tại mà còn phải luôn hướng tới nền văn hóa đích thực vì sự phát triển bền vững, vì hạnh phúc của con người.

Văn hóa là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu… Bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, biết gạn đục khơi trong, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, biệt chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh và đặc tính của dân tộc mình. Xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và nhân dân, vì vậy, văn hóa cũng phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm vì nhân dân phục vụ và phát huy sứ mệnh của toàn dân làm văn hóa. Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Chỉ khi được mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể, tôn giáo, nhà trường, gia đình… tham gia tích cực, thường xuyên, liên tục, bền bỉ thì văn hóa mới có thể thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra.

PGS, TS. Phan Ngọc nhận định rằng, nhờ có quan điểm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể khẳng định, có một đường lối văn hóa, một tư tưởng trước hết có giá trị đối với bước chuyển hiện đại của Việt Nam, nhưng không chỉ của Việt Nam, mà có sự đóng góp vào việc đổi mới văn hóa thế giới vì quyền lợi của những người lao động17.

Tiếp thu quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, đặc biệt là trong đời sống xã hội, trong “Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025)”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để thực sự là đột phá phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế. Khơi dậy tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự cường, tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, công chức và đảng viên; tăng cường giám sát việc thực hiện các chính sách văn hóa. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”18. Có thể thấy, Đại hội không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa, mà còn định hướng phát triển văn hóa góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới hiện nay.

Có thể khẳng định, cho đến nay, những tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như đời sống văn hóa mới theo quan điểm của Người vẫn còn nguyên giá trị đối với toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân Việt Nam.


1, 5, 6, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 458; t. 4, tr. 175; t.11, tr. 10; t. 1, tr. 25.

2, 11, 13, 16, 17. Phan Ngọc: Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2002, tr. 392, 452, 451, 443-444, 436.

3. Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1981, tr. 345.

4, 8, 9. Hồ Chí Minh: Về Văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr. 10, 15, 13-14.

10. Tuyên bố toàn cầu của UNESCO về đa dạng văn hóa lần thứ 31 (tháng 11/2001), khái niệm được đưa ra là: “Văn hóa nên được xem là một tập hợp các đặc điểm nổi vật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã hội, và ngoài văn học và nghệ thuật, nó còn bao gồm lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị, các truyền thống và tín ngưỡng” (Dẫn theo Phạm Xuân Nam: Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa, một góc nhìn từ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 20).

12. UNESCO và Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam: Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 5-6.

14. Xem Hoài Thanh: Có một nền văn hóa Việt Nam, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam, Hà Nội, 1946, tr. 25.

15. Trần Quốc Vượng (Chủ biên): Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2017.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, t. II, tr. 134-135.

PHẠM LAN OANH

Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

 

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin