Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam hiện nay

CT&PT - Chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn là xu thế chung của toàn cầu, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Điều này giúp giải quyết các vấn đề tiêu cực như cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường, hướng tới phát triển kinh tế bền vững.

1. Tính tất yếu của đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế tức là đổi mới cách thức huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực theo hướng hợp lý và hiệu quả; chuyển cách thức tăng trưởng theo chiều rộng từ chủ yếu dựa vào tăng vốn, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên sang tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu chủ yếu dựa vào sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế. Bởi để thực hiện việc đổi mới mô hình tăng trưởng, phải cơ cấu lại nền kinh tế, nhằm khắc phục những hạn chế nảy sinh trong quá trình tăng trưởng; đồng thời xây dựng một cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu của mô hình tăng trưởng.

Với những biến động tiêu cực của kinh tế thế giới thời gian qua, kinh tế Việt Nam đang đối diện với không ít khó khăn, thách thức, đồng thời nền kinh tế đang bộc lộ những vấn đề nội tại, nếu không nhận diện đầy đủ và giải quyết đích đáng, sẽ là những rào cản lớn đối với sự phát triển của Việt Nam trong thời gian tới.

Có thể nói, mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua chứa đựng nhiều bất ổn và méo mó. Đáng chú ý là từ những sự méo mó trong tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến những dấu hiệu tác động tiêu cực tới mục tiêu tăng trưởng vì con người. Phát triển con người ở Việt Nam chưa tương ứng với quá trình tăng trưởng kinh tế. Sự lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vùng sâu, vùng xa, đến các đối tượng dễ bị tổn thương chưa mạnh, sự phân hóa có xu hướng tăng lên rõ rệt. Sự gia tăng tình trạng tham nhũng, tiêu cực làm cho xếp loại về mức độ trong sạch quốc gia có xu hướng giảm xuống rõ rệt. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt vẫn còn nhiều bức xúc; tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông còn nghiêm trọng; chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp và chậm được cải thiện; các bệnh viện bị quá tải, chất lượng dịch vụ y tế còn thấp.

Một điều rõ ràng đang song hành với quá trình tăng trưởng là sự báo động ô nhiễm môi trường ngày càng mạnh hơn, nguy cơ mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên đang xuất hiện ngày càng rõ ràng bởi sự phát triển của các loại hình sản xuất không thân thiện với môi trường. Điều này không chỉ xảy ra ở các đô thị, các khu công nghiệp tập trung, mà còn xảy ra ở cả nhiều vùng nông thôn.

Xét theo góc độ hiệu ứng lan tỏa của mô hình tăng trưởng kinh tế hiện hữu tới các yếu tố liên quan trực tiếp đến con người đã xuất hiện ngày càng nhiều dấu hiệu không mong muốn. Không những chất lượng cuộc sống của thế hệ này chưa được cải thiện đáng kể, mà còn đe dọa trực tiếp chất lượng cuộc sống của các thế hệ tương lai.

Như vậy, mô hình phát triển thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế cơ bản, đáng chú ý là: Việt Nam dừng quá lâu ở phát triển theo chiều rộng, chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa quyết định của chất lượng phát triển, thiếu quyết tâm và biện pháp thiết thực chuyển mạnh sang ưu tiên phát triển chiều sâu; Tư tưởng thành tích, bệnh chạy theo tốc độ và số lượng một cách thái quá diễn ra phổ biến; Trong triết lý phát triển, thiếu tầm nhìn toàn diện và dài hạn, bị hút quá nhiều vào từng mặt và trước mắt; Khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo suy thoái kéo dài, không chấn hưng, cải cách được; Cơ cấu kinh tế theo ngành và theo thành phần kinh tế chuyển dịch chậm, mất cân đối lớn và còn nhiều lạc hậu; Thế chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa đồng bộ và còn khá nhiều méo mó; Xã hội nhiều tiêu cực, tệ nạn; Môi trường bị ô nhiễm và phá hoại nặng nề...

Mặc dù, tăng vị trí trên bảng xếp hạng, nhưng theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), nền tảng kinh tế Việt Nam còn khá mong manh, thể hiện qua một số chỉ tiêu như hiệu quả thị trường lao động, mức độ phát triển thị trường tài chính hay trình độ khoa học công nghệ còn thấp. Nếu dựa trên GDP bình quân đầu người thì Việt Nam mới chỉ được xếp ở giai đoạn đầu tiên - giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn lực. Ngoài ra, năng lực quản trị vĩ mô cũng như chất lượng thể chế, chính sách theo nguyên tắc thị trường đang là một trong những nhân tố cản trở năng lực cạnh tranh của nước ta. Nguyên nhân là do các chính sách đưa ra chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề bất ổn vĩ mô trong ngắn hạn, thiếu chiến lược dài hạn. Các giải pháp điều hành còn mang nặng tính hành chính hơn là tính thị trường. Điều này làm cho chỉ số chất lượng thể chế, chính sách của Việt Nam còn ở mức thấp so với khu vực và hầu như không có thay đổi.

Mặt khác, trong bối cảnh ngày nay, chúng ta càng thấu hiểu đà tăng trưởng kinh tế sẽ không thể duy trì lâu dài nếu thiếu tính bền vững. Phát triển bền vững không mâu thuẫn với tăng trưởng nhanh, ngược lại chính là nội hàm quan trọng, làm nên điều kiện cần và đủ của tăng trưởng nhanh trong dài hạn, đặc biệt là trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài ra, phát triển bền vững là mục tiêu bao trùm không chỉ là vấn đề kinh tế, chất lượng tăng trưởng mà bao gồm cả vấn đề xã hội, môi trường, văn hóa, con người. Chính vì vậy, trong mọi mô hình phát triển, nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế phải là quá trình hiện thực hiệu quả ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường, hay nói cách khác là gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn để hướng tới sự phát triển nhanh, bền vững, khôi phục sự ổn định của nền kinh tế và tạo tiền đề cho sự phát triển ổn định trong dài hạn.

Trước thực tế đó, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra định hướng và mục tiêu cho đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của đất nước: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Đồng thời, “Đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững”1Đây là quan điểm mang tính định hướng chiến lược lâu dài của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

2. Thực trạng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam 

Những kết quả đạt được

Trong giai đoạn 2011 - 2020, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Trong đó, giai đoạn 2011 - 2015, tăng trưởng bình quân đạt 5,9%/năm; giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%/năm và năm 2020 vẫn đạt 2,91% dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020. Tăng trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020, tính chung 10 năm (2011-2020) đạt 39%, vượt mục tiêu đề ra (35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm2

Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng được tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt nhiều kết quả tích cực: Các trọng tâm cơ cấu lại về đầu tư, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực. Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước trong tổng đầu tư giảm từ 38,1% năm 2010 xuống 30,9% năm 2020. Kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công được tăng cường, góp phần chống thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính quốc gia.

Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống. Tỷ lệ nợ xấu giảm từ 17,2% năm 2012 xuống dưới 3% đến cuối năm 2020... Cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh theo hướng tích cực. Quy mô thị trường chứng khoán tăng mạnh từ 19,3% GDP năm 2011 lên 72,6% GDP năm 2019, năm 2020 đạt khoảng 85% GDP.

Cơ cấu lại DNNN được đẩy mạnh, thực chất hơn. Số lượng DNNN được thu gọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; xuất hiện nhiều mô hình mới, hiệu quả. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong nước đạt tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 43% GDP, thu hút khoảng 85% lao động đang làm việc của nền kinh tế.

Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống còn 14,8% năm 2020. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ngày càng tăng; tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 65% năm 2011 lên 85% năm 2020. Một số ngành, lĩnh vực dịch vụ ứng dụng công nghệ cao được đẩy mạnh và từng bước hiện đại hóa như: công nghệ thông tin, truyền thông, thương mại điện tử, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, y tế, hàng không...

Một số hạn chế, tồn tại

Quá trình dịch chuyển cơ cấu còn chậm chạp, thiếu đồng bộ: Cơ cấu các thành phần, khu vực kinh tế còn nhiều bất cập. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước có nhiều điểm nghẽn, hiệu quả chưa cao, vẫn xảy ra tình trạng thất thóat tài sản nhà nước qua cổ phần.

Trong hơn 35 năm thực hiện đổi mới kinh tế, cơ cấu kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỷ trọng đối với ngành nông nghiệp, gia tăng tỷ trọng đối với những ngày công nghiệp, dịch vụ. Mặc dù vậy, tốc độ dịch chuyển vẫn còn khá chậm. Năm 2013, cơ cấu GDP dịch chuyển theo hướng tỷ trọng nhóm ngày nông, lâm nghiệp giảm từ 19.67% xuống còn 18.39%, tỷ trọng 2 nhóm ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ tăng lên từ 80.33% lên 81.61%. Cơ cấu đầu tư cũng thay đổi theo xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành nhưng vấn đề đáng nói là ở đây mức độ đầu tư cho nông nghiệp chưa thực sự tương xứng với lợi thế ngành nông nghiệp mang lại trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngoài ra, Việt Nam đã đa dạng hóa các thành phần kinh tế theo xu hướng giảm tỷ trọng thành phần kinh tế quốc dân và tăng dần tỷ trọng của các thành phần kinh tế ngoài quốc dân cũng như thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế vẫn chưa khai thác hết tiềm năng do hạn chế trong mặt bằng cạnh tranh công bằng cũng như sự liên kết hợp tác giữa các thành phần kinh tế.

Mặt khác, các vấn đề xã hội, môi trường còn nhiều bất cập: Muốn nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững, ngoài việc tập trung vào những vấn đề thuộc về kinh tế, những vấn đề về xã hội, môi trường cũng cần phải được chú trọng. Nhờ phát triển theo chiều rộng, thu nhập bình quân đầu người nước ta đã tăng lên, tỷ lệ xóa đói giảm nghèo ngày càng cao làm cho tỷ lệ hộ nghèo nước ta giảm xuống chỉ còn 7.6%. Tuy nhiên, mức độ chênh lệch giàu nghèo của nước ta vẫn còn cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân còn thấp. Bên cạnh đó, do khai thác tài nguyên thiên nhiên quá nhiều, quá chú trọng đến phát triển kinh tế mà thiếu quan tâm đến môi trường nên môi trường sinh thái đang bị hủy hoại, ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống của người dân. Có tình trạng phát triển mất cân đối giữa các vùng, địa phương. Các đô thị lớn, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…, tăng trưởng mạnh, thu hút nhiều nguồn lực nên dẫn đến bị quá tải cả về kinh tế, xã hội, môi trường.

Các nền tảng, nguồn lực cho đổi mới mô hình tăng trưởng có nhiều điểm nghẽn: khoa học và công nghệ yếu, tính ứng dụng không cao, lệ thuộc vào bên ngoài; thể chế chưa tạo ra được các đột phá; nguồn nhân lực có trình độ thấp, già hóa dân số nhanh; tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt…

Với việc tồn tại những bất cập trong mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, kết hợp với các yếu tố đầu vào là vốn, lao động cũng như tài nguyên luôn có giới hạn nhất định, do đó, muốn phát triển bền vững trong tương lai, nước ta cần thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn.

3. Định hướng đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong thời gian tới

Một là, mô hình tăng trưởng có sự kết hợp hài hoà giữa chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo: Tư duy này cần được thể hiện rõ trong chính sách tăng cường đầu tư vào các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu, cụ thể là đầu tư nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nâng cao trình độ khoa học và công nghệ quốc gia, đầu tư nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ. Vai trò của khoa học và công nghệ trong tăng trưởng phải được coi là chìa khoá để có thể sớm thay đổi mô hình tăng trưởng với tiêu hao đầu vào (vốn, đất đai, năng lượng,...) ở mức thấp hơn nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng, tiến tới tăng trưởn cao hơn.

Hai là, mô hình tăng trưởng mới hướng tới việc nâng cao chất lượng, chú trọng đến năng suất, hiệu quả của tăng trưởng, kể cả hiệu quả của sự tham gia trong chuỗi giá trị toàn cầu: Cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào gia công hiệu quả thấp, bị động và bị phụ thuộc cao vào các nền kinh tế khác sang mô hình tăng trưởng dựa trên chủ động khai thác lợi thế cạnh tranh, chú trọng nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất và trong xuất khẩu, chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hoá có dung lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của đất nước và thực hiện đồng bộ quá trình khai thác và chế biến sản phẩm. Phải đầu tư nâng cao năng lực cho các ngành công nghiệp hỗ trợ để chủ động sản xuất các hàng hoá trung gian, cung cấp đầu vào cho quá trình chế biến, nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, tham gia với vị trí ngày càng có lợi và chủ động trong chuỗi giá trị toàn cầu nói riêng và quá trình phân công quốc tế nói chung.

Ba là, mô hình tăng trưởng hướng tới các mục tiêu dài hạn: Cần tập trung nhiều vào đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, từng bước hiện đại. Tăng cường đầu tư để tháo gỡ các điểm nghẽn kìm hãm sự tăng trưởng dài hạn Việt Nam. Đó là, sự yếu kém của hệ thống cơ chế chính sách; sự yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng; sự thấp kém về chất lượng nguồn nhân lực. Hoàn thiện cơ chế giám sát và tăng cường công tác giám sát đầu tư. Kiên quyết và có biện pháp mạnh mẽ chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Đó là các cân đối tích lũy - tiêu dùng, cân đối nguồn vốn đầu tư xã hội, cân đối lao động - việc làm, cân đối thu - chi ngân sách, cân đối xuất khẩu - nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế. Cần quan tâm đến việc giữ vững an ninh năng lượng, an ninh lương thực, và sự hoạt động an toàn, hiệu quả của các định chế tài chính.

Bốn là, mô hình tăng trưởng bền vững hướng tới mục tiêu thân thiện môi trường và vì con người.

- Tăng trưởng kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường: Sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng tái sinh tài nguyên; phòng chống ô nhiễm môi trường, có phương án xử lý ô nhiễm, kỹ thuật phòng chống và giải quyết hệ quả của ô nhiễm, có chính sách kinh tế phù hợp áp dụng cho các cơ sở kinh tế gây ô nhiễm thực hiện sự tham gia cộng đồng trong vấn đề này; thực hiện đa dạng hóa sinh học, hình thành những vùng vệ tinh tạo yếu tố môi trường thuận lợi cho những khu vực có ô nhiễm.

Coi trọng tăng trưởng kinh tế xanh, nghiên cứu thực hiện mô hình tăng trưởng các bon thấp. Khuyến khích sản xuất và tiêu dùng bền vững, kết hợp các công cụ và biện pháp kinh tế, tài chính, tuyên truyền, tư vấn, hướng dẫn để hình thành lối sống thân thiện với môi trường, tiêu dùng bền vững, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.

- Tăng trưởng kinh tế hướng tới mục tiêu phát triển con người: Tăng trưởng kinh tế phải được kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc làm, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ, giới và dân tộc. Tạo điều kiện ngày càng công bằng hơn cho mọi người về cơ hội phát triển. Thực hiện các chính sách tạo điều kiện cho mọi người được trang bị các năng lực và bảo đảm cho mọi người có cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế.

Năm là, đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực trọng tâm. Trong đó:

- Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cơ cấu lại danh mục vốn đầu tư nhà nước trong các ngành, nghề. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, thóai vốn đầu tư của Nhà nước. Đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ; kiên quyết xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, các dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, hiệu quả thấp. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ việc vay nợ và sử dụng vốn vay.

- Cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng. Tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng. Từng bước xử lý và xoá bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo; đẩy mạnh thóai vốn ngoài ngành của các ngân hàng thương mại. Ban hành các quy định hỗ trợ xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; bố trí nguồn lực phù hợp để xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, quản trị rủi ro các tổ chức tín dụng. Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; xử lý nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém.

- Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất đầu tư. Cơ cấu lại đầu tư công gắn với cơ cấu lại tài chính, ngân sách nhà nước và nợ công. Công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát đối với đầu tư công. Triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, thất thóat, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Tập trung tháo gỡ vấn đề chi ngân sách, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu với hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư.

- Đổi mới, cơ cấu lại khu vực sự nghiệp công lập. Thực hiện giao quyền tự chủ đầy đủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công; phát triển thị trường dịch vụ công có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập; giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả.

- Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ và các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất, hướng tới nền nông nghiệp sạch, công nghệ cao, thân thiện với môi trường; phát huy lợi thế so sánh. Tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp; phát triển các hình thức hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị. Phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Có chính sách phù hợp để phát triển và tiêu thụ các nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, có lợi thế. Tiếp tục đầu tư phát triển, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ môi trường sinh thái.

- Cơ cấu lại một cách thực chất các ngành công nghiệp. Thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá. Tập trung vào những ngành công nghiệp nền tảng, có lợi thế cạnh tranh, có ý nghĩa chiến lược; lựa chọn sản phẩm chủ yếu để ưu tiên phát triển; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng hàm lượng công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất linh kiện, cụm linh kiện, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu.

- Thực hiện cơ cấu lại và phát triển nhanh các ngành dịch vụ, duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển du lịch quốc gia.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật
2. Tổng cục Thống kê (2011-2020). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các năm, từ năm 2011 đến năm 2020
3. Nguyễn Thị Thu Trang (2021). Làm gì để nâng cao năng suất lao động và đóng góp TFP đối với tăng trưởng kinh tế?, truy cập từ https://nhadautu.vn/lam-gi-de-nang-cao-nang-suat-lao-dongva-dong-gop-tfp-doi-voi-tang-truong-kinh-te-d57022.html


TS. TRỊNH TRUNG HƯỚNG

Học viện Tài chính

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin