Phát triển khu công nghiệp và mô hình khu công nghiệp sinh thái gắn với tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn

CT&PT - Mô hình KCX, KCN ở Việt Nam ra đời từ năm 1991 trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, nhằm thực hiện chủ trương mở cửa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Qua các thời kỳ, chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển KCN không ngừng được hoàn thiện, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.

Mô hình khu công nghiệp được hình thành và phát triển gắn liền với bối cảnh, yêu cầu của các thời kỳ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của đất nước, là công cụ để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.

Hiện nay, cả nước có 425 KCN, KCX được thành lập với quỹ đất công nghiệp khoảng 89,2 nghìn ha, trong đó có 299 KCN đã đi vào hoạt động, thu hút  lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và các địa phương nói riêng. Trong những năm gần đây, vốn FDI trong KCN, khu kinh tế (KKT) chiếm khoảng 35 - 40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước; tính riêng trong lĩnh vực chế biến, chế tạo, vốn FDI trong KCN, KKT chiếm 70 - 80% tổng vốn đăng ký cả nước. KCN và KKT đã thực sự trở thành các khu vực trọng điểm, thu hút các nguồn vốn đầu tư và dự án lớn trong và ngoài nước, là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu trên thế giới (Samsung, LG, Canon, Foxconn, Lego, Gortek, Hyosung, Formosa...), đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, góp phần tạo việc làm, nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.

70299022e388bf293eb55b1cb9151cb3202312081030128799730-1730244705.jpg
Việc chuyển đổi các KCN theo hướng bền vững thúc đẩy sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên, năng lượng…

Tuy nhiên, việc gia tăng các hoạt động sản xuất công nghiệp và hệ thống các KCN tại Việt Nam tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến đời sống của người dân; cộng sinh công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong KCN hoặc giữa các KCN còn hạn chế; các dịch vụ trong một số KCN chưa được cung cấp đầy đủ hoặc chất lượng chưa cao; an sinh xã hội trong các KCN có nơi còn chưa được bảo đảm...

Các chính sách phát triển đã tác động trực tiếp đến mô hình, định hướng phát triển KCN ở Việt Nam, đặt ra yêu cầu về chất lượng phát triển KCN ở mức cao hơn theo hướng phát triển bền vững và theo chiều sâu, chú trọng phát triển công nghệ cao, đổi mới mô hình phát triển và gắn với liên kết vùng. Đây cũng là những tiền đề để triển khai thí điểm và xây dựng các văn bản quy định về KCN sinh thái tại Việt Nam.

Việc chuyển đổi các KCN theo hướng bền vững tại Việt Nam không tách rời xu hướng phát triển các KCN trên thế giới. Theo đó, phát triển các mô hình khu dựa trên sự quản lý tiên tiến; chuyển đổi số, ứng dụng khoa học và công nghệ; hợp tác, cộng sinh công nghiệp để sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu, năng lượng, tài nguyên, chia sẻ dịch vụ; đẩy mạnh thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” để cắt giảm tối đa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Mô hình KCN sinh thái hướng tới phát triển bền vững đã được triển khai từ những năm 1990 và đạt được nhiều kết quả tích cực tại các quốc gia: Đan Mạch, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Đặc điểm chung của các quốc gia trong áp dụng mô hình này là việc thực hiện các giải pháp sử dụng năng lượng và tài nguyên hiệu quả, sản xuất sạch hơn, gắn với mạng lưới cộng sinh công nghiệp để chuyển đổi các KCN theo mô hình truyền thống sang mô hình KCN sinh thái, từ đó mang lại lợi ích thiết thực về kinh tế, môi trường, xã hội cho các doanh nghiệp và các KCN.

Quá trình phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam.

Với sự hỗ trợ của các tổ chức, chuyên gia quốc tế và nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, trong thời gian qua, Việt Nam đã thí điểm chuyển đổi một số KCN từ mô hình truyền thống sang KCN sinh thái, thông qua thúc đẩy sản xuất sạch hơn và liên kết hợp tác trong sản xuất để sử dụng hiệu quả các nguồn lực.

Trong giai đoạn 2015 - 2019, sáng kiến KCN sinh thái được triển khai thí điểm tại 3 địa phương: Ninh Bình, Đà Nẵng, Cần Thơ, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) thực hiện, với nguồn tài trợ từ Tổng cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO), Quỹ Môi trơờng toàn cầu (GEF) và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP). Các hoạt động thí điểm thực hiện KCN sinh thái đã đạt được kết quả tích cực: (1) Phổ biến khái niệm, đặc điểm, lợi ích của mô hình KCN sinh thái tới các bộ, ngành liên quan, các địa phương, các KCN thí điểm và các doanh nghiệp tham gia dự án; (2) Mô hình KCN sinh thái lần đầu tiên được thể chế hóa tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP, ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, đặt nền móng pháp lý cho việc chuyển đổi các KCN thông thường sang KCN sinh thái và nhân rộng mô hình này; (3) Các doanh nghiệp tham gia đã được hưởng lợi từ các kết quả cụ thể, góp phần nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Sau hơn 4 năm triển khai hỗ trợ chuyển đổi 4 KCN thí điểm (KCN Khánh Phú, KCN Gián Khẩu tại Ninh Bình, KCN Hòa Khánh tại Đà Nẵng và KCN Trà Nóc 1&2 tại Cần Thơ), các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn do dự án đề xuất đã giúp 72 doanh nghiệp tiết kiệm được hơn 22.000 MWh điện, 600.000 m3 nước, 140 TJ nhiên liệu hóa thạch, gần 3.600 tấn hóa chất và chất thải, trên 76 tỷ đồng/năm và huy động trên 207 tỷ đồng từ khu vực tư nhân để thực hiện giải pháp; giảm tiêu thụ năng lượng, nước, hóa chất và chất thải; cắt giảm 32 Kt khí CO2/năm.

Từ năm 2020 đến nay, từ nguồn hỗ trợ tài chính của Chính phủ Thụy Sĩ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục phối hợp với UNIDO nhân rộng mô hình KCN sinh thái tại 3 địa phương là Hải Phòng, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh, thu được kết quả đáng khích lệ. Tính đến hết tháng 5/2024, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UNIDO đã hỗ trợ được 90 doanh nghiệp với 889 giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP) tại 4 KCN Hiệp Phước (Thành phố Hồ Chí Minh), Amata (Đồng Nai), Đình Vũ (Hải Phòng) và Hòa Khánh (Đà Nẵng), trong đó có 429 giải pháp đã được thực hiện, góp phần tiết kiệm năng lượng, nước, giảm phát thải khí CO2 và đem lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp; đề xuất thực hiện 62 cơ hội cộng sinh công nghiệp, cộng sinh công nghiệp - đô thị cho 3 KCN (Hiệp Phước, Amata, Đình Vũ) với 18 trường hợp có tính khả thi cao, góp phần tối ưu hóa việc tái sử dụng chất thải, cụ thể hóa việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục tham mưu cho Chính phủ hoàn thiện hành lang pháp lý để khuyến khích phát triển mô hình KCN sinh thái tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP, ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế. Theo đó, Nghị định số 35/2022/NĐ-CP đã kế thừa các quy định tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chính sách hỗ trợ và hợp tác phát triển KCN sinh thái; tiêu chí xác định; các ưu đãi; trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái; các quy định liên quan đến chứng nhận lại hoặc chấm dứt hiệu lực, thu hồi Giấy chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái. Đặc biệt, bên cạnh việc hướng dẫn chuyển đổi các KCN sinh thái, Nghị định khuyến khích, định hướng việc quy hoạch và xây dựng mới các KCN sinh thái thông qua quy hoạch xây dựng, thiết kế hợp lý các phân khu chức năng và định hướng thu hút các dự án đầu tư có ngành, nghề tương đồng để hỗ trợ thực hiện cộng sinh công nghiệp và có ưu đãi để khuyến khích phát triển KCN sinh thái mới. Ngoài ra, Nghị định cũng làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc định hướng và hỗ trợ triển khai các KCN sinh thái tại địa phương; đơn giản hóa các điều kiện, tiêu chí và thủ tục chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái; quy định việc thực hiện theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện KCN sinh thái và doanh nghiệp sinh thái trên hệ thống thông tin về KCN, KKT theo định hướng chuyển đổi số. Một trong những điểm mới được đánh giá là tiến bộ của Nghị định số 35/2022/NĐ-CP đó là đã bổ sung các quy định để bảo đảm điều kiện an sinh xã hội cho người lao động làm việc trong KCN. Nghị định yêu cầu các địa phương phải xác định quỹ đất để quy hoạch xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong các KCN ngay từ bước quy hoạch phát triển các KCN trên địa bàn; việc phê duyệt quy hoạch hoặc hoàn thành đầu tư xây dựng khu nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động (đối với dự án KCN mở rộng) là điều kiện bắt buộc để được chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN (hoặc KCN mở rộng); bổ sung quy định về việc xây dựng công trình dịch vụ, tiện ích công cộng, cơ sở lưu trú cho người lao động làm việc trong KCN trên phần đất dịch vụ trong KCN.

Trên cơ sở các kết quả tích cực trong triển khai mô hình KCN sinh thái tại Việt Nam, Chính phủ Thụy Sĩ cam kết tiếp tục cùng UNIDO đồng hành với Việt Nam đẩy mạnh triển khai KCN sinh thái, thực hiện kinh tế tuần hoàn trong giai đoạn 2024 - 2028. Bên cạnh đó, trong các khuôn khổ hợp tác với các tổ chức quốc tế khác, hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ việc xây dựng KCN sinh thái tại Bình Dương; thực hiện các mạng lưới tuần hoàn nước đối với một số KCN tập trung nhiều hoạt động dệt may tại Hưng Yên, Thừa Thiên Huế; thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả năng lượng trong các KCN để xây dựng KCN sinh thái theo mô hình của Hàn Quốc; tiếp tục mở rộng các hoạt động hợp tác với Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức Sáng kiến Thương mại bền vững Việt Nam của Hà Lan (IDH)... để triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong các KCN thực hiện kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của chuỗi ngành hàng để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.  

Việc triển khai mạnh mẽ KCN sinh thái trong khuôn khổ các dự án hợp tác quốc tế thời gian qua có ý nghĩa lan tỏa, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững cho nhiều địa phương, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN tại Việt Nam, điển hình như KCN Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) của Công ty Cổ phần Shinec. Nhà đầu tư đã sử dụng nguồn vốn của mình để tự triển khai mô hình KCN sinh thái. KCN hiện đang phát triển theo hướng KCN sinh thái thông minh, thực hiện tốt các hoạt động kinh tế tuần hoàn.

Có thể nói, KCN sinh thái đang trở thành tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với mục tiêu phát triển bền vững, lợi ích kinh tế song hành trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Nhiều địa phương và nhà đầu tư hạ tầng KCN xác định việc phát triển KCN theo mô hình KCN sinh thái là nhu cầu tất yếu, cấp bách để kiến tạo lợi thế cạnh tranh bền vững. KCN sinh thái sẽ đóng góp đáng kể vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cho giải pháp công nghiệp xanh, bảo đảm an ninh năng lượng, thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết phát triển bền vững.

Định hướng phát triển khu công nghiệp trong thời gian tới gắn với phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn

Thế giới đang trong quá trình điều chỉnh hết sức mạnh mẽ, làm thay đổi trật tự và cấu trúc về thương mại, đầu tư. Các nhân tố tác động mạnh tới Việt Nam được xác định bao gồm: (i) Xoay trục địa chính trị trong chiến lược ngoại giao của các nước lớn; (ii) Xu hướng phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (chuyển đổi số, phát triển xanh, bền vững); (iii) Tái sắp xếp chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, hình thành chuỗi cung ứng mới; (iv) Gia tăng cạnh tranh khốc liệt giữa các quốc gia trong thu hút đầu tư; thiết kế chính sách riêng để thu hút các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ lõi có giá trị gia tăng lớn hoặc nâng cao vị thế quốc gia (điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp hydrogen xanh, phương tiện điện...); (v) Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực thông qua các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao; đồng thời đã thành công xác lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các cường quốc hàng đầu thế giới.

Đây chính là những yếu tố vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam để phát triển bứt phá và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu, mà đang thực sự trở thành xu thế tất yếu, là giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định tầm nhìn và định hướng chiến lược kinh doanh. Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững, các KCN trong thời gian tới cần có những giải pháp đột phá, phù hợp với xu thế mới, trong đó tập trung vào các trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiên phong thay đổi hướng phát triển các mô hình KCN mới. Theo đó, tập trung đẩy mạnh phát triển mô hình KCN sinh thái, KCN xanh, trong đó cần quy hoạch hình thành các khu công nghệ và đổi mới sáng tạo, hướng đến xây dựng “Thung lũng Silicon Việt Nam”.

Thứ hai, lấy khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo làm trụ cột cho phát triển trong tương lai. Trong đó, chuyển hướng sang chủ động kiến tạo, tạo môi trường cho các doanh nghiệp công nghệ, startup được hình thành và phát triển. Dành quỹ đất và nguồn lực cho các dự án R&D, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, tiết kiệm năng lượng...

Thứ ba, thu hút đầu tư có chọn lọc, chủ động tiếp xúc, bám sát các tập đoàn hàng đầu thế giới trong các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên.

Thứ tư, phát triển sản xuất, công nghiệp, dịch vụ trên nguyên tắc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, gắn với liên kết phát triển vùng, hình thành cụm liên kết ngành; hạn chế phát triển KCN trên đất nông nghiệp có năng suất ổn định (đặc biệt là đất trồng lúa) và tại các khu vực khó có khả năng đền bù, giải phóng mặt bằng.

Thứ năm, phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển hạ tầng xã hội; bảo đảm bền vững về môi trường; quy hoạch và triển khai các giải pháp xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN, KKT; hoàn thiện hệ sinh thái công nghiệp - đô thị - dịch vụ, bảo đảm cho việc phát triển bền vững các KCN, KKT.

Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng nhà máy xử lý nước thải; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa tại ban quản lý KCN, KKT, kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư tại các KCN, KKT.

Thứ bảy, nâng cao năng lực cạnh tranh và sức hấp dẫn của các KCN, KKT các địa phương thông qua: (i) cải thiện cơ sở hạ tầng (giao thông, cảng biển, cảng hàng không, dịch vụ logistic); (ii) tăng cường nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Nhìn lại chặng đường phát triển của đất nước sau gần
40 năm đổi mới, có thể khẳng định mô hình KCN, KKT đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò, vị trí ngày càng quan trọng, là động lực thúc đẩy tăng trưởng và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là kênh thu hút các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các KCN, KKT trên cả nước phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả, đặc biệt đối với các mô hình KCN mới như KCN sinh thái. Trong đó, việc nghiên cứu, xây dựng Luật KCN, KKT để bảo đảm tăng cường tính cạnh tranh quốc tế của các mô hình KCN, KKT là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện trong thời gian tới.

 

Quý bạn đọc đặt sách/tạp chí online vui lòng để lại thông tin