CT&PT - Công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các bước thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư luôn là những vấn đề nhạy cảm và mang tính thời sự, thu hút sự quan tâm của Nhà nước và toàn xã hội. Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích, xác định nguyên nhân cụ thể, làm rõ thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, bài viết rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp quan trọng, góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong giai đoạn hiện nay.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi lớn nhờ việc đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: khu đô thị, khu công nghiệp, khu dân cư, khu dân cư thương mại…; diện tích đất dành cho phát triển khu công nghiệp, dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng khu đô thị tăng nhanh, đáp ứng phần lớn nhu cầu sử dụng đất trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải có mặt bằng xây dựng, vì vậy, Nhà nước phải tiến hành thu hồi đất của người dân đang sử dụng. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong các văn bản trước đây, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã quy định khá chi tiết, cụ thể trong Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có những nội dung chưa thực sự phù hợp với thực tiễn: các quy định về giá đất bồi thường; quy định về thời điểm xác định giá bồi thường, hỗ trợ, tái định cư..., dẫn đến tình trạng người dân không đồng ý giao đất, làm chậm tiến độ thi công công trình, dự án, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư; nhiều công trình, dự án phải thực hiện biện pháp cưỡng chế thu hồi đất. Để khắc phục những hạn chế trên, cần có sự đánh giá một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
2. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
So với trước đây, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rõ nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thể hiện tính khả thi và vai trò tích cực của các văn bản pháp luật. Nhờ đó, trong thời gian qua công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã đạt được các kết quả khá khả quan. Với sự cải thiện quy định pháp luật về phương pháp tổ chức cũng như năng lực của cán bộ thực thi giải phóng mặt bằng, tiến độ giải phóng mặt bằng trong các dự án đầu tư gần đây đã được rút ngắn hơn so với các dự án cũ, góp phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân cũng như đối với dự án. Việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư góp phần giúp đất nước ta xây dựng cơ sở vật chất, phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, các dự án trọng điểm của Nhà nước, cũng như góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị thu hồi.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập:
Thứ nhất, bất cập trong quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
- Giá đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để tính giá trị bồi thường thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường do chưa có quy định cụ thể để xác định giá bảo đảm phù hợp với thị trường, hoặc do quy định cụ thể lại trái với quy định chung này. Do vậy, công tác giải phóng mặt bằng gặp khó khăn khi giá đền bù quá chênh lệch với giá thị trường, khiến người bị thu hồi đất thiệt thòi và không đồng thuận. Quy định cụ thể là giá đất nông nghiệp được định theo lợi nhuận thu được từ sản xuất nông nghiệp, thấp hơn nhiều so với giá đất nông nghiệp trên thị trường trong trường hợp đất nông nghiệp có khả năng chuyển sang đất phi nông nghiệp trong tương lai.
Tình trạng hai giá đất trên thị trường: một bên là mức giá để tính bồi thường cho nông dân rất thấp , một bên là giá trị đất sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp tăng lên rất cao. Đây là kẽ hở lớn tạo điều kiện cho nạn quan liêu, tham nhũng, đầu cơ và tạo động lực chuyển đổi các khu đất thuận lợi nhất cho sản xuất nông nghiệp sang các mục đích sử dụng khác. Pháp luật Việt Nam chưa có công cụ hữu hiệu để chống đầu cơ, tích trữ; khó khăn trong việc xác định giá đất đâu là giá thật, đâu là giá ảo; tình trạng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất khá phổ biến, khi làm hợp đồng thì nêu giá thấp để đóng thuế ít, nhưng khi đất được thu hồi thì đòi giá bồi thường rất cao; hoặc trường hợp một số người đang sử dụng đất không muốn hợp tác với chủ đầu tư nên đã nói giá đất rất cao, khiến doanh nghiệp khó có thể tiếp cận được quỹ đất như dự định. Trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất thì chỉ thu hồi phần diện tích đất nằm trong dự án, còn một phần diện tích rất nhỏ nằm ngoài dự án không bị thu hồi, mà phần diện tích còn lại sau thu hồi này quá nhỏ nên không đủ điều kiện về mặt bằng xây dựng, người bị thu hồi đất không thể sử dụng, cũng không thể chuyển nhượng, do đóảnh hưởng xấu đến mỹ quan đô thị. Tuy nhiên, việc phối hợp tuyên truyền, vận động hợp thửa, hợp khối hoặc thu hồi diện tích đất ngoài chỉ giới xây dựng còn hạn chế.
Thứ hai, bất cập trong quy định về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Những quy định hiện hành về hỗ trợ vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm bù đắp những thiệt hại cho người bị thu hồi đất trong hiện tại cũng như tương lai. Hiện nay, pháp luật về bồi thường vẫn chưa có quy định chi tiết về điều tiết giá trị gia tăng thêm từ việc thu hồi đất của Nhà nước, chưa bảo đảm công bằng đối với những người bị thu hồi đất nằm trong dự án, công trình đang triển khai thực hiện, đặc biệt là dự án mở rộng đường giao thông, đường cao tốc… Chẳng hạn, người đang ở vị trí thuận lợi như mặt tiền đường lớn bị thu hồi toàn bộ diện tích đất nên phải tái định cư ở nơi mới, hoặc ngược lại, người đang ở vị trí không thuận lợi lại ngẫu nhiên có được vị trí thuận lợi và nhận được giá trị tăng thêm của công trình, dự án đó mang lại. Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại thông qua chính sách thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đầu tư cở sở hạ tầng và chính sách hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi”1. Tuy nhiên, nguyên tắc này vẫn chưa được quy định cụ thể, nội hàm của nó vẫn chưa được quy định rõ trong các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, bất cập trong quy định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Việc xây dựng các khu tái định cư thường ở tình trạng bị động, tồn tại lớn nhất là cơ sở hạ tầng khu tái định cư không được đầu tư theo quy định. Theo quy định của Luật Đất đai thì phải có khu tái định cư mới được ban hành quyết định thu hồi đất ở, nơi tái định cư phải có điều kiện sống tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ, khu tái định cư phải được quy hoạch theo địa bàn tỉnh gắn với điều kiện thuận lợi về hạ tầng phục vụ đời sống, tuy nhiên những vấn đề này thường không được thực hiện đầy đủ tại các địa phương.
Việc ưu tiên bố trí vốn đầu tư xây dựng các khu tái định cư chưa được quan tâm đúng mức, các khu tái định cư ở nông thôn chưa phù hợp với tập quán sinh hoạt của người dân, đất giao mới có quy mô diện tích như hiện nay không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân. Nhiều khu tái định cư không xây dựng công viên, khu sinh hoạt cộng đồng, khu vui chơi, giải trí cho trẻ em nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sinh hoạt của người dân cũng như việc học tập của trẻ em. Nơi tái định cư thường có chất lượng nhà ở không bảo đảm yêu cầu, tách biệt khỏi tổng thể đô thị xung quanh, có giá trị đất thấp, thường ở những nơi hẻo lánh, xa trung tâm thành phố, hệ thống giao thông, trường học, bệnh viện, các yếu tố văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh chưa được đề cập trong quy hoạch các khu tái định cư.
Người bị thu hồi chỗ ở thường không được lựa chọn nơi tái định cư mà thường phải thực hiện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ thư, bất cập trong quy định về trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Các chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chậm thay đổi, chênh lệch nhiều theo giá cả thị trường. Giá đất ở tại các khu đô thị đã hoàn thành hiện nay khá cao, khiến người dân có tâm lý so sánh giữa giá được bồi thường và giá nhà đầu tư bán ra. Vấn đề xác định giá đất tính tiền bồi thường chưa phù hợp với giá thị trường, ủy ban nhân dân tỉnh ban hành bảng giá đất ngày 01/01 hằng năm, nhưng thường thì bảng giá đất năm sau sẽ cao hơn năm trước, nên một số hộ dân bị thu hồi đất cố tình trì hoãn nhận tiền bồi thường, không bàn giao đất cho chủ đầu tư để chờ bảng giá đất mới có hiệu lực. Giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải phù hợp với thị trường nhưng vẫn do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định dựa vào tư duy của cơ quan hành chính, chưa có quy định của pháp luật về hoạt động của hệ thống cung cấp dịch vụ định giá.
3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2013
Để công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo Luật Đất đai năm 2013 trong thời gian tới được thực hiện hiệu quả, hạn chế xảy ra vướng mắc, khiếu kiện của người dân, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong trường hợp cá nhân, hộ gia đình bị thu hồi đất, không có nơi nào để ở sẽ được xét cho mua đất tái định cư, song trên thực , giá bồi thường thấp, người dân không mua được suất tái định cư, do đó có thể điều chỉnh chính sách cụ thể đối với phần chênh lệch giữa số tiền bồi thường đất mà người dân nhận được với giá suất tái định cư, hộ dân sẽ được tạo điều kiện vay với phương thức trả chậm không lãi suất. Hoặc Nhà nước có thể ban hành chính sách cho những hộ dân này vay tiền mua suất tái định cư theo hình thức tín chấp, thời hạn kéo dài từ 15 đến 20 năm, tạo điều kiện để người dân ổn định cuộc sống. Ngoài ra, cần nghiên cứu giải quyết một số vấn đề như: việc làm đối với những hộ bị thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp; vấn đề thu nhập, cơ hội làm ăn bị ảnh hưởng khi bị thu hồi đất; di chuyển chỗ ở đối với người bị thu hồi đất ở tại vị trí thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp.
Pháp luật đất đai đã quy định chi tiết về diện tích bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Cần bố trí ngân sách để đền bù, thu hồi diện tích đất hợp thửa, hợp khối nếu người sở hữu không tự giác thực hiện. Đối với phần diện tích đất ngoài chỉ giới, nếu hết thời hạn hợp thửa, hợp khối mà người sở hữu không thực hiện theo quy định, cơ quan chức năng phải thực hiện thu hồi, không để diện tích đất này trở thành nguyên nhân phát sinh mới trường hợp đất không đủ điều kiện mặt bằng xây dựng nhà kiên cố hoặc để làm diện tích tồn đọng gây thiếu mỹ quan đô thị.
Pháp luật cần quy định cụ thể đối với trường hợp có phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt và giá bồi thường tại thời điểm chi trả bồi thường trên thực tế cho người có đất bị thu hồi. Cần quy định rõ việc tính giá bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi thường trên thực tế, nhất là khi trong việc bồi thường, giải tỏa, đa số các khiếu nại của người dân liên quan đến giá đất. Theo quy định hiện hành, người dân được bồi thường theo phương án do cơ quan Nhà nước phê duyệt khi có quyết định thu hồi đất. Tuy nhiên, thời gian từ lúc có quyết định thu hồi đất cho đến khi cơ quan chức năng hoàn thành thủ tục để người dân nhận tiền bồi thường có thể kéo dài 3 năm hoặc 5 năm. Khi đó, giá đất tại thời điểm nhận tiền bồi thường đã khác xa so với giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Vì vậy, người bị thu hồi đất luôn chịu thiệt thòi. Trong thời gian đó, cả giá đất và chính sách bồi thường về đất đai đều đã thay đổi, đồng tiền giảm giá trị, cơ hội đầu tư kinh doanh hay mua nhà ở của người dân cũng bị bỏ lỡ.
Việc thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp (đặc biệt là xây dựng các khu đô thị, khu nhà ở thương mại); người bị thu hồi đất chỉ được bồi thường theo giá đất nông nghiệp (thông thường giá đất nông nghiệp rất thấp, chỉ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn đồng/m2). Sau đó, diện tích đất này được giao cho các công ty kinh doanh xây dựng nhà ở tiến hành san lấp, phân lô, bán nền và xây dựng nhà để bán. Lúc này, mỗi m2 đất có giá trị lên đến vài triệu hoặc vài chục triệu đồng. Người bị thu hồi đất có sự so sánh về sự chênh lệch giữa giá đất mình được bồi thường với giá đất mà các chủ đầu tư bán cho người mua nhà, từ đó phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Để khắc phục tình trạng trên, cần sửa đổi quy địnhđối với thời điểm tính giá bồi thường cho người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo quy định, đối tượng được hỗ trợ chuyển đổi nghề và hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, còn một số trường hợp cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhằm tăng thêm thu nhập thì không được xem xét hỗ trợ, dẫn đến tình trạng khiếu nại, gây khó khăn cho công tác giải phóng mặt bằng. Do đó, việc đề xuất bỏ quy định này nhằm bảo đảm công bằng cho các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất.
Được bố trí đất để cải táng mồ mả, nếu không có đất để bố trí hoặc tự lo chỗ cải táng thì ngoài việc được bồi thường chi phí còn được hỗ trợ thêm một khoản chi phí về đất (5.000.000 đồng/mộ). Đề nghị nâng mức hỗ trợ nhằm bảo đảm quyền lợi cho người dân.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Theo quy định của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1, Điều 100 Luật Đất đai năm 2013; đồng thời, không có quy định cụ thể đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân có thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, mà trong giấy tờ đó không ghi rõ diện tích đất ở. Do đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định rõ các trường hợp nêu trên thì thu tiền sử dụng đất như thế nào.
Đối với trường hợp chậm nhận tiền xuất phát từ việc người có đất bị thu hồi cố tình gây khó khăn, làm ảnh hưởng đến tiến độ dự án, thì giá bồi thường được tính theo phương án đã phê duyệt. Ngược lại, trường hợp chủ đầu tư, cơ quan Nhà nước chậm tiến độ, chậm chi trả tiền bồi thường thì phần chênh lệch sẽ do chủ đầu tư, Nhà nước chi trả cho người dân có đất bị thu hồi.
Cần tăng diện tích các căn hộ tái định cư, đất dịch vụ hoặc ưu tiên được mua nhà, đất thuộc các dự án phát triển đô thị với giá ưu đãi và được miễn thuế. Cần chủ động xây dựng khu tái định cư có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng địa phương, vùng miền, từ đó giúp người có đất bị thu hồi có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, yên tâm sinh sống, ổn định và gắn bó lâu dài tại khu tái định cư.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định liên quan khác khi Nhà nước thu hồi đất
Bổ sung thêm bước ghi nhận hiện trạng khu đất bị thu hồi tại thời điểm thông báo thu hồi đất trong trình tự, thủ tục thu hồi đất. Việc ghi nhận hiện trạng khu đất thu hồi tại thời điểm thông báo thu hồi đất có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bồi thường tài sản gắn liền với đất, đặc biệt là cây trồng, vật nuôi, những tài sản mà việc tạo lập không cần khai báo, đăng ký. Quy định thủ tục này sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng cố tình tạo lập tài sản đón đầu thu hồi đất để được bồi thường, đồng thời có căn cứ chặt chẽ trong giải quyết thắc mắc, khiếu nại về sau.
- Về giáp ranh trên cùng địa bàn tỉnh: ủy ban nhân dân các tỉnh chỉ đạo các sở, ngành liên quan, cùng ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố nơi có các tuyến đường giao thông đi qua, từ đó cân đối, điều chỉnh giá đất các tuyến giao nhau theo nguyên tắc mức chênh lệch không quá 30%.
4. Kết luận
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đổi mới và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Sự ra đời của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thể hiện tính khả thi và vai trò tích cực của các văn bản pháp luật. So với trước đây, Luật Đất đai năm 2013 quy định rõ về nguyên tắc về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu thực tế cũng như đòi hỏi của các quy luật kinh tế; quan tâm hơn tới lợi ích của những người bị thu hồi đất, giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư và người bị thu hồi đất. Trong giai đoạn mới hiện nay, cần nhanh chóng giải quyết những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, các vấn đề liên quan cũng như những tồn tại trong quá trình triển khai thực hiện, từ đó giảm thiểu tình trạng khiếu nại. Muốn vậy, trước hết cần có quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng để kịp thời điều chỉnh; các cơ quan có thẩm quyền cần có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả, góp phần đẩy nhanh công tác thu hồi, giải phóng mặt bằng, bồi thường, tạo được lòng tin và ý thức tự giác tuân thủ của người dân đối với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.
1. Điều 19 Luật Đất đai năm 2013.
2. Điều 31 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã quy định về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Võ Thị Mộng
Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Hậu Giang