Vận dụng sức mạnh chính trị, tinh thần của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

CT&PT - Sức mạnh chính trị, tinh thần là nhân tố cơ bản, quan trọng quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong kỷ nguyên mới hiện nay, vận dụng và phát huy sức mạnh chính trị, tinh thần của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là yêu cầu vô cùng cấp thiết, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, trong đó có việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị.

1. Sức mạnh chính trị, tinh thần - yếu tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội và ghi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trang sử vàng chói lọi nhất, đi vào lịch sử thế giới như một sự kiện chính trị - quân sự mang tầm vóc thời đại.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là chiến thắng của bản lĩnh, sức mạnh và trí tuệ Việt Nam, chiến thắng của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Có nhiều nhân tố làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, trong đó, nhân tố sức mạnh chính trị, tinh thần là nhân tố cơ bản, hàng đầu, mang tính quyết định. Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, là sự kết tinh, hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc, không chỉ trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà còn là sự phát huy đến đỉnh cao sức mạnh của cả dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử và sức mạnh thời đại vào cuộc quyết chiến chiến lược đánh bại kẻ thù xâm lược; là sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và sức mạnh của tiền tuyến lớn miền Nam đã kiên trung, anh dũng, kiên quyết đứng lên chống kẻ thù xâm lược. Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 không đứng riêng, biệt lập mà gắn bó chặt chẽ trong mối quan hệ với các nhân tố khác, là sức mạnh tổng hợp của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại, được quy tụ và phát huy cao độ trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

V.I. Lênin từng nhấn mạnh: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy”1. Vai trò quyết định của sức mạnh chính trị, tinh thần trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 được thể hiện trên các nội dung sau:

Một là, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là động lực to lớn, là ưu thế tuyệt đối so với đối phương.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Không quân đội nào, khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”2. Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và âm mưu khuất phục, chia cắt đất nước. “Nguyện vọng tha thiết và ý chí sắt đá của toàn dân Việt Nam là thực hiện thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình. Đấu tranh cho thống nhất là con đường sống của nhân dân Việt Nam”3. Ý chí độc lập, tự do, thống nhất đất nước được xây dựng, trở thành truyền thống, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam, thể hiện một cách sinh động xuyên suốt chiều dài lịch sử, nhất là trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải”4, anh dũng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự hội tụ đỉnh cao sức mạnh chính trị, tinh thần của dân tộc, ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai miền Nam - Bắc nhằm thực hiện mục tiêu chính nghĩa cao cả, thiêng liêng, khát vọng của cả dân tộc mà Đảng và Bác Hồ đã đề ra. Chính lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm sắt đá, niềm tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; mục tiêu giành độc lập cho dân tộc và tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, dành toàn lực để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Thắng lợi to lớn của quân và dân ta dẫn đến sự rối loạn, thất bại nhanh chóng của quân địch trong Chiến dịch Tây Nguyên (tháng 3/1975), bắt đầu từ “đòn điểm huyệt” then chốt Buôn Ma Thuột, là thực tế sinh động phản ánh ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần của quân và dân ta so với đối phương. Ưu thế đó khiến cả những người bên kia chiến tuyến cũng phải thừa nhận và ngưỡng mộ. Đại sứ Mỹ Taylo đã phải thú nhận: “Chúng tôi đã không đánh giá đúng tinh thần cực kỳ kiên quyết và đức hy sinh vì sự nghiệp của người Việt Nam”5.

Về nhân tố chính trị, tinh thần của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lúc đầu, địch mạnh hơn ta gấp trăm gấp ngàn lần về vật chất. Nhưng về tinh thần và chính trị thì ta mạnh hơn địch gấp trăm gấp ngàn lần”6. Chính trị, tinh thần của quân và dân ta không ngừng lớn mạnh và chiếm ưu thế tuyệt đối trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, được phát huy cao độ, trở thành sức mạnh áp đảo kẻ thù trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Từ một nhân tố chiếm ưu thế tuyệt đối, thế và lực không ngừng phát triển, trở thành ưu thế toàn diện áp đảo đối phương, giành thắng lợi hoàn toàn là một quy luật vận động và phát triển của nhân tố chính trị, tinh thần của quân và dân ta trong chiến tranh, nhất là trong các chiến dịch quyết chiến chiến lược.

Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta còn là ưu thế về sức mạnh của những người chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng cao cả, chiến đấu vì chính nghĩa; là ưu thế về tinh thần, ý chí quyết tâm chiến đấu của những người dân yêu nước, khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, kiên quyết đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thể hiện rõ ở chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”7; là ưu thế sức mạnh tổng hợp của cả nước đang trên đà chiến thắng, hội tụ vào chiến dịch mang tính quyết định cuối cùng nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Hai là, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là nhân tố quyết định làm chuyển hóa tình hình và lực lượng, tạo thế và lực áp đảo quân địch, giành thắng lợi cuối cùng.

Chuyển hóa lực lượng trong chiến tranh không phải là sự đột biến tức thì mà là một quá trình chuyển hóa dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất trong cả thế và lực. Nếu không có sự tích lũy về lượng thì không có sự chuyển hóa về chất. Quá trình này phụ thuộc vào nhiều nhân tố và sự vận động tổng hợp của tất cả các nhân tố: kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao; vũ khí kỹ thuật, lực lượng và thế trận; thiên thời, địa lợi, nhân hòa..., trong đó nhân tố chính trị, tinh thần đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Chính trị, tinh thần có vai trò như “chất keo” kết dính tất cả các nhân tố khác, làm nên sức mạnh tổng hợp của tất cả các nhân tố, làm tăng lên gấp bội sức mạnh của quân và dân ta.

Trong chiến tranh, để giành chiến thắng, nhất thiết phải tạo ra được sức mạnh lớn hơn kẻ thù. Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã phát huy cao độ ưu thế tuyệt đối là tinh thần yêu nước nồng nàn, tình yêu quê hương tha thiết, khát vọng cháy bỏng và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp hơn hẳn đối phương. Sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc; tinh thần quyết chiến quyết thắng... là nội dung cốt lõi trong sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta, được phát huy cao độ và tỏa sáng trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, ác liệt, phát huy cao nhất tinh thần chủ động, sáng tạo trong chiến đấu, nâng cao hiệu quả sử dụng vũ khí, trang bị để tìm ra cách đánh phù hợp, hiệu quả, giành thắng lợi. Lý tưởng, lẽ sống “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, tinh thần “cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc”, sự đoàn kết muôn người như một của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; những hành động dũng cảm, kiên cường, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh quên mình trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lao động sản xuất của cán bộ, chiến sĩ quân đội và các tầng lớp nhân dân ta trên khắp mọi miền Tổ quốc, đặc biệt là của đồng bào miền Nam, đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, làm xoay chuyển tình hình theo hướng có lợi cho ta, quy tụ sức mạnh cao nhất giành thắng lợi. Đây là nét độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, huy động được mọi nguồn lực, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh.

2. Vận dụng sức mạnh chính trị, tinh thần của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

Sức mạnh chính trị, tinh thần là nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đây là cơ sở để chúng ta khẳng định: Một dân tộc đã từng đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ, đã từng làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thì dân tộc đó nhất định sẽ có đầy đủ ý chí, quyết tâm và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn mà vươn lên, “sánh vai với các cường quốc năm châu”8 như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn; xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Trong bối cảnh tình hình mới, để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển bền vững đất nước, phấn đấu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao thì sức mạnh cơ bản của Việt Nam vẫn là sức mạnh chính trị, tinh thần. Xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh chính trị, tinh thần của toàn dân là nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục xây dựng, động viên, khuyến khích và nâng lên tầm cao mới.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có những thuận lợi mới, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Ở trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên, là nền tảng quan trọng để tiếp tục xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng được đổi mới và nâng cao; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng hoàn thiện, năng lực quản lý - quản trị phát triển được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có những mặt gay gắt, nặng nề hơn so với giai đoạn trước: Phát triển kinh tế - xã hội chưa bền vững; nhiều điểm nghẽn, nút thắt chưa được tháo gỡ; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng gay gắt, phức tạp; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ... còn nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo có mặt còn diễn biến phức tạp hơn. Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Tình hình trên đòi hỏi chúng ta càng phải coi trọng xây dựng, phát huy sức mạnh chính trị, tinh thần, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đây là vấn đề lớn, đặc biệt hệ trọng hiện nay, nhất là trong việc hoạch định đường lối và thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và khóa XIII của Đảng đều khẳng định: Bất luận trong điều kiện hoàn cảnh nào, chúng ta đều phải thấy rõ tính phức tạp của diễn biến tình hình thế giới, khu vực và trong nước để nêu cao ý chí quyết tâm và có biện pháp hữu hiệu để giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện cho bằng được: “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”9.

Từ bài học Đại thắng mùa Xuân năm 1975, chúng ta cần thực hiện tốt chiến lược xây dựng, động viên và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần trong tình hình mới. Chiến lược đó phải kết hợp chặt chẽ và nằm trong tổng thể chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, là một bộ phận hợp thành sức mạnh tổng hợp quốc gia, gắn bó chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược xây dựng đất nước. Vấn đề cơ bản hiện nay là phải ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm yên lòng dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc.

Để phát huy được sức mạnh tổng hợp nhân tố chính trị, tinh thần của mỗi cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, đáp ứng yêu cầu để bước sang kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần thực hiện những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, mỗi chủ trương, quyết định của Đảng, cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, vì nhân dân và lợi ích chung của tập thể.

Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, với hai chế độ chính trị khác nhau, nhờ đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo mà Đảng ta đề ra, chúng ta đã chiến thắng quân xâm lược và bè lũ tay sai. Đường lối đó là luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với toàn bộ cách mạng Việt Nam và thống nhất nước nhà; cách mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ chủ trương trên, Đảng đã phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân “toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng cao thắng quân địch có số đông, lấy trang bị kỹ thuật ít hơn, kém hiện đại đánh thắng quân địch có kỹ thuật dồi dào và hiện đại hơn; là nghệ thuật đánh địch trên thế mạnh, thế chủ động, thế bất ngờ”10.

Những kinh nghiệm quý báu từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã khẳng định, Đảng phải có chủ trương, đường lối chính trị đúng đắn; phải “kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện”11.

Trong mọi công việc của cơ quan, đơn vị, cần “thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”12. Phải coi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động là trung tâm, là chủ thể của mọi quyết sách chiến lược trong cơ quan, đơn vị. Do đó, phải tổ chức có hiệu quả, thực chất việc cán bộ, đảng viên tham gia giám sát, phản biện, đánh giá hiệu quả mọi hoạt động của cơ quan và phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và sự lãnh đạo, chỉ đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Thứ hai, làm tốt công tác tư tưởng, phát huy cao độ sức mạnh chính trị, văn hóa, tinh thần của cán bộ, đảng viên trong cơ quan, tạo niềm tin và sức mạnh chính trị, tinh thần động viên toàn Đảng bộ, cơ quan vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đế quốc Mỹ với sức mạnh của một cường quốc kinh tế, quân sự lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, với 5 đời tổng thống kế nhiệm nhau, thay đổi 4 chiến lược chiến tranh: “Chiến tranh đơn phương”, “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”, Chính phủ Mỹ đã huy động tối đa sức người, sức của vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam: chi gần 700 tỷ USD, huy động 6 triệu lượt binh sĩ, sử dụng khoảng 15.350.000 tấn bom, đạn, hàng chục triệu lít chất diệt cỏ và phát quang, trong đó phần lớn là chất độc da cam..., huy động 22.000 xí nghiệp lớn phục vụ cho cuộc chiến, ⅓ số nhà khoa học ngày đêm vắt óc tính kế, huy động hầu hết các lực lượng thiện chiến, sử dụng tất cả mọi biện pháp, thủ đoạn tàn bạo, thâm độc nhất… nhưng cuối cùng Mỹ vẫn thất bại13. Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, Đảng đã tạo niềm tin và sức mạnh chính trị, tinh thần động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đi tới thắng lợi.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác chính trị, tư tưởng, bởi theo Người: “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm”14, do đó phải “nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”15. “Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Như vậy, thì không thể lãnh đạo quần chúng, không thể làm cách mạng”16.

Công tác tư tưởng là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến tâm tư, nguyện vọng, suy nghĩ của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”17. Cán bộ lãnh đạo “Phải đánh thông tư tưởng và động viên sáng kiến và lực lượng của toàn Đảng, toàn dân. Mọi người phải quyết tâm làm cho được và tin tưởng làm nhất định được”18.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, mỗi cấp ủy, cơ quan, đơn vị cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị.

Công tác tư tưởng quyết định sự thành bại trong mọi việc của Đảng và Nhà nước, cơ quan, đơn vị. Vì vậy, công tác tư tưởng cần được quan tâm, chú trọng, đặt lên vị trí hàng đầu, kịp thời động viên cán bộ, đảng viên nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ, các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra; xây dựng mô hình, cách làm sáng tạo mang lại hiệu quả cao cho cơ quan, đơn vị. Để làm tốt được điều đó, mọi cơ chế, chính sách trong cơ quan, đơn vị phải được công khai, minh bạch, công bằng; cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị phải thật sự gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc, phải xây dựng được khối đoàn kết thống nhất, có sức quy tụ cao và phát huy tối đa sức mạnh của tập thể. Các cấp ủy đảng phải thường xuyên thực hiện công tác tư tưởng bằng nhiều biện pháp, phù hợp với từng đối tượng để định hướng tốt dư luận, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội, làm cho cán bộ, đảng viên thông suốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Kịp thời nắm bắt tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng, giải quyết những bức xúc của cán bộ, đảng viên. Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị quan tâm động viên cán bộ, đảng viên phát huy sáng kiến, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc; kịp thời khen thưởng những tập thể, cá nhân tiên tiến, gương mẫu trên mọi lĩnh vực. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng, tỉnh táo trước âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, giữ vững kỷ luật phát ngôn, không nói và làm trái với nghị quyết của Đảng. Tự trang bị cho mình cơ sở lý luận và thực tiễn để phản biện những quan điểm sai trái. Mỗi đảng viên phải là một tuyên truyền viên để cán bộ, viên chức, người lao động trong cơ quan được thông suốt những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và cơ quan nơi mình công tác.

Thứ ba, phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh của toàn cơ quan, đơn vị, tạo thành một khối đoàn kết, thống nhất.

Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đảng đã thực sự làm cuộc động viên tổng lực trong toàn quốc - ở cả hậu phương và tiền tuyến, huy động mức cao nhất sức người và sức của trong một thời gian rất ngắn chỉ hơn hai năm (1973 - 1975), huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, giành chiến thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén, kịp thời của Đảng là nhân tố quyết định phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Những quyết sách của Đảng làm thay đổi cục diện chiến tranh đã trở thành ngọn cờ hiệu triệu toàn dân, toàn quân phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, tạo “sự đồng tâm của đồng bào đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc” tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, đánh tan ngụy quân, xóa bỏ ngụy quyền, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng nhân dân và phát huy chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Để phát huy sức mạnh đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, cần chú trọng việc khơi dậy và phát huy khát vọng phát triển cơ quan của mỗi cán bộ, đảng viên; đồng thời coi trọng việc giáo dục, bồi dưỡng, củng cố và tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và tin tưởng vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị.

Thứ tư, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã phát huy vai trò tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ đảng và các cấp chỉ huy quân đội cả nước. Những kinh nghiệm về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở hai miền đất nước trước và trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã để lại nhiều bài học quý cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định nhiệm vụ: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố niềm tin, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”19. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sự đoàn kết toàn dân - cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để phát huy được sức mạnh chính trị, tinh thần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trong từng cơ quan, đơn vị, việc đổi mới công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bảo đảm công tác cán bộ vừa có tầm nhìn xa, có kế hoạch, lộ trình cụ thể, thích hợp và chọn được khâu đột phá. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và yêu cầu của Đảng về chính sách cán bộ trong thời kỳ mới. Xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống các quy chế, quy định quản trị cơ quan, có tiêu chuẩn cụ thể, bảo đảm dân chủ, công khai, công bằng, khách quan trong công tác cán bộ; có cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ, viên chức và người lao động, đặc biệt là đối với những người có nhiều sáng kiến, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”20. Đây là những yếu tố bảo đảm để huy động sức mạnh tổng hợp của cơ quan, đơn vị trong những đợt cao điểm hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm.


1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr. 147.

2, 4, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 4, tr. 89, 3, 35.

3, 16, 18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 272, 606, 555.

5. Sức mạnh Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 181.

6, 7, 14, 15, 17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 77; t. 15, tr. 131; t. 7, tr. 114; t. 8, tr. 554-555; t. 9, tr. 309.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2013, tr. 168-169.

10. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 16.

11, 12, 19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 180-181, 192, 200.

13. Xem Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Sức mạnh của trí tuệ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 511-512.

20. Nguyễn Phú Trọng: Vững bước trên con đường đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, t. 4, tr. 1238

ThS. PHẠM THỊ THINH - Phó Giám đốc - Phó Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/van-dung-suc-manh-chinh-tri-tinh-than-cua-dai-thang-mua-xuan-nam-1975-vao-viec-hoan-thanh-nhiem-vu-chinh-tri-cua-moi-co-quan-don-vi-trong-ky-nguyen-phat-trien-moi-cua-dan-toc-a9167.html