Xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông nhằm phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam

CT&PT - Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông là một cấu thành hữu cơ trong hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế của một đất nước. Hệ thống này có vai trò, ý nghĩa quan trọng, là tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và là cầu nối giúp quốc gia hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Là một quốc gia đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập toàn cầu ngày một sâu rộng, đòi hỏi Việt Nam phải “xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”.

1. Sự cần thiết đầu tư cho xây dựng và phát triển hạ tầng giao thông ở Việt Nam

Kết cấu hạ tầng giao thông là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một trong ba khâu đột phá cần ưu tiên đầu tư phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững, nhằm tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Với bất cứ quốc gia nào, hệ thống giao thông nói chung cũng có vai trò kết nối sản xuất với tiêu thụ, giữa vùng này với vùng khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác và đáp ứng nhu cầu đi lại của con người, bảo đảm mối liên hệ kinh tế, phục vụ sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng, các quốc gia, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng và địa phương.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đối với phát triển kinh tế bền vững, trong những năm qua, Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, cụ thể hóa bằng các chiến lược và nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đặc biệt là Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trong đó hạ tầng giao thông là một trong bốn nhóm lĩnh vực trọng tâm với yêu cầu bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế lớn với nhau và với các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đường bộ.

Nhiều hình thức huy động vốn đã được Chính phủ chấp thuận và ủng hộ để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, điển hình là những công trình đầu tiên đầu tư bằng hình thức BOT, BT, với tổng mức đầu tư lên tới vài chục tỷ đồng. Bước vào thời kỳ đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là trong hơn 10 năm qua, sự phát triển nhanh và ngày càng nâng cao về chất lượng kết cấu hạ tầng giao thông đã thỏa mãn tốt hơn nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa của xã hội. Giao thông vận tải chính là sự kết hợp hữu cơ của kết cấu hạ tầng, phương tiện và tổ chức dịch vụ vận tải. Trong đó, kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng, đòi hỏi phải đi trước một bước. Vì vậy, chủ trương đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI, xác định  mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế phát triển, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và từ giai đoạn 2021 - 2030 đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông tiếp tục là một trong những đột phá chiến lược quan trọng cần ưu tiên đầu tư phát triển, đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững.

Tầm quan trọng của việc xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông được thể hiện ở các mặt sau đây:

Thứ nhất, nếu chúng ta có một hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ và hiện đại sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ, giảm sự chênh lệnh về mức sống và dân trí giữa các khu vực dân cư.

Việt Nam có 7 vùng kinh tế lớn là: Đông Bắc, Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế cho thấy, vùng nào có cơ sở hạ tầng giao thông được quan tâm đầu tư phát triển thì có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cao và ngược lại. Việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông sẽ giúp nền kinh tế tối ưu hóa các nguồn lực, tận dụng được lợi thế so sánh giữa các vùng, miền trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Từ đó, nền sản xuất hàng hóa sẽ có cơ hội phát triển thông qua hệ thống trao đổi và phân phối.

Thứ hai, trong chiến lược phát triển kinh tế của từng vùng luôn có chiến lược phát triển mạng lưới giao thông vận tải. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ còn là đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của những ngành công nghiệp phương tiện vận tải như công nghiệp ô tô, xe máy. Xây dựng và nâng cao chất lượng đường bộ còn để theo kịp tốc độ phát triển của phương tiện cơ giới đường bộ cũng như nhu cầu lưu thông ngày càng cao như hiện nay.

Thứ ba, không chỉ những ngành công nghiệp sản xuất tạo được sự phát triển khi kết cấu hạ tầng giao thông phát triển, mà ngay cả những ngành công nghiệp không khói như ngành du lịch cũng sẽ phát triển khi Việt Nam có được hệ thống giao thông hoàn thiện, thuận tiện và liên kết được các khu vực, vùng, miền trong cả nước.

Thứ tư, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông còn có ý nghĩa rất quan trọng trong góp phần cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng chính nguồn vốn đó để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, tạo điều kiện cho các ngành sản xuất vật chất hoạt động hiệu quả hơn, từ đó góp phần giải quyết vấn đề việc làm. Mạng đường bộ ASEAN hiện đang được tiến hành xây dựng trong giai đoạn hai là một ví dụ cụ thể về mối quan hệ giữa hội nhập và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.

Thứ năm, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông còn được xem là giải pháp trực tiếp và gián tiếp trong giải quyết những vấn đề xã hội cấp bách, nhất là đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải gia tăng nhanh chóng trong thời gian vừa qua. Nhu cầu giao thông đường bộ bao gồm cả nhu cầu vận chuyển hàng hóa và nhu cầu vận chuyển hành khách.

Thứ sáu, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối với sự phát triển. Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, kết cấu hạ tầng thiếu và yếu đã gây “ứ đọng” trong luân chuyển các nguồn lực, dẫn đến những “nút cổ chai kết cấu hạ tầng”, ảnh hướng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế.

Trong những năm gần đây, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam tương đối ổn định và có nhiều dấu hiệu khởi sắc, nợ công có xu hướng giảm. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông đã được quan tâm đầu tư, đến nay đã đáp ứng được một phần nhu cầu phát triển về kinh tế - xã hội.

2. Thực trạng phát triển hạ tầng giao thông của Việt Nam 

Nhờ tập trung huy động mọi nguồn lực cho phát triển hạ tầng giao thông theo sự chỉ đạo của Chính phủ, trong thời gian qua, hạ tầng giao thông của Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ theo hướng đồng bộ, hiện đại, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền. Các công trình giao thông được quy hoạch và đầu tư theo hướng đồng bộ, hiện đại như: đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển quốc tế đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới.

Cụ thể từ năm 2011 đến năm 2024, hạ tầng giao thông đường bộ đã được đầu tư xây dựng như sau:

Giai đoạn 2011 - 2020, công tác đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều công trình giao thông lớn, hiện đại đã và đang từng bước được đầu tư xây dựng, góp phần tạo nên diện mạo mới cho đất nước, tạo tăng cường kết nối giữa các vùng, miền trong cả nước và với quốc tế. Trong đó, lĩnh vực đường bộ có nhiều đột phá. Trong giai đoạn 2011 - 2020, đã đầu tư xây dựng khoảng 1.074km đường bộ cao tốc, đưa tổng chiều dài cao tốc đang khai thác lên 1.163km. Mạng lưới quốc lộ đạt 24.598km, các tuyến quốc lộ chính yếu được đưa vào cấp kỹ thuật, thay thế cầu yếu và đồng bộ tải trọng.

Giai đoạn 2021 - 2024, Quốc hội, Chính phủ đã ưu tiên dành nhiều nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, bao gồm nguồn vốn đầu tư công Trung ương và địa phương, tăng thu - tiết kiệm chi... Tổng nguồn vốn bố trí giai đoạn này đạt khoảng 470 nghìn tỷ đồng, gấp gần 3 lần so với giai đoạn 2016 - 2020. Tính đến nay, toàn quốc có tổng chiều dài đường bộ là 595,2 nghìn km, trong đó, đường bộ quốc gia (quốc lộ, cao tốc) là 25,6 nghìn km. Mạng lưới đường cao tốc đã đưa vào khai thác khoảng 23 đoạn tuyến, tương đương với 1.239 km; đang triển khai xây dựng khoảng 14 tuyến, đoạn tuyến, tương đương với 840 km. Hệ thống quốc lộ được trải mặt nhựa đạt khoảng 64,8%, còn lại là mặt đường bê tông xi măng, láng nhựa và cấp phối. Đường có quy mô 1 làn xe chiếm 11%, quy mô 2 làn xe chiếm khoảng 74,5%, quy mô 4 làn xe chiếm 13,9%, quy mô từ 6 - 10 làn xe chiếm 0,5%, còn lại là đường xen kẽ với bề rộng khác nhau.

Hệ thống hạ tầng đường sắt cũng được quan tâm đầu tư nâng cấp, cải tạo, trong đó đã hoàn thành 4 dự án đường sắt quan trọng, cấp bách trên tuyến đường sắt Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần rút ngắn thời gian chạy tàu, nâng cao an toàn giao thông; đang triển khai 4 dự án cải tạo, nâng cấp các đoạn còn lại, dự kiến hoàn thành trong năm 2025. Đưa vào khai thác tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông và đang đẩy nhanh tiến độ các dự án đường sắt đô thị: Nhổn - ga Hà Nội, Bến Thành - Suối Tiên, Bến Thành - Tham Lương.

Những thành quả trong đầu tư hạ tầng giao thông cũng được ghi nhận tại hệ thống cảng biển ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. Theo Bộ Giao thông Vận tải, đến nay, đã đầu tư, đưa vào khai thác 286 bến cảng (thuộc 36 cảng biển cả nước) cơ bản đáp ứng năng lực vận tải, xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước, luồng hàng hải được đầu tư đồng bộ với các bến cảng biển. Cụ thể, đang triển khai thi công luồng cho tàu biển tải trọng lớn vào sông Hậu (giai đoạn 2); nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo (giai đoạn 2); xây dựng các bến số 3, 4, 5, 6 khu bến cảng Lạch Huyện; nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải từ phao số “0” vào khu bến cảng container Cái Mép, luồng Thọ Quang, cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng), luồng Quy Nhơn (Bình Định), luồng Nam Nghi Sơn (Thanh Hóa)…, đưa tổng công suất các cảng từ 420 triệu tấn (năm 2011) lên khoảng 580 triệu tấn mỗi năm.

Đặc biệt, đã cải tạo và đưa vào khai thác 22 cảng hàng không, cơ bản đáp ứng nhu cầu của hành khách, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch, hội nhập quốc tế. Gần đây, đã khởi công xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành (giai đoạn 1), Nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, cải tạo, mở rộng một số cảng hàng không như Điện Biên, Cát Bi, Phú Bài…

Mặc dù kết quả hạ tầng giao thông của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song vấn đề hạ tầng giao thông vẫn là “điểm nghẽn” đối với nhu cầu phát triển đất nước. Đường bộ cao tốc mới bước đầu hình thành, chưa hoàn thành các mục tiêu đặt ra; hệ thống đường sắt lạc hậu, chưa đầu tư đường sắt tốc độ cao…; cảng biển chưa khai thác hết công suất; một số cảng hàng không đã quá tải…, do đó, chưa hình thành hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại.

3. Một số giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông

Tầm nhìn đến năm 2030, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông tiếp tục là một trong những đột phá chiến lược quan trọng cần ưu tiên đầu tư phát triển, đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững. Trong điều kiện nguồn lực còn khó khăn, cần lựa chọn một số công trình trọng điểm có tính đột phá để thực hiện đầu tư, kiến tạo động lực phát triển quốc gia. Do đó, cần tăng mức đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông bằng ngân sách nhà nước; huy động tối đa mọi nguồn lực, có cơ chế, chính sách thu hút vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế; khai thác hiệu quả nguồn lực từ tài sản công, đất đai để tạo vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó, nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế, chính sách về thuế, phí, hỗ trợ tài chính theo hướng tạo thuận lợi cho phát triển vận tải khách công cộng, vận tải đa phương thức… Phấn đấu đến năm 2030, trên 80% các tỉnh/thành phố trong cả nước đều có đường bộ cao tốc đi qua hoặc kết nối tới trung tâm hành chính và có khoảng 3.500km - 4.000km đường bộ cao tốc. Trong đó, ưu tiên đầu tư đưa vào khai thác thông tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau, các tuyến đường bộ cao tốc trên các hành lang vận tải chủ yếu, các tuyến đường bộ cao tốc cửa ngõ kết nối với Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn, các tuyến cao tốc vành đai đô thị; hệ thống đường bộ Việt Nam đồng bộ về tiêu chuẩn kỹ thuật, kết nối thuận lợi với hệ thống đường bộ ASEAN, Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng và xuyên Á.

Bên cạnh đó, tập trung phát triển giao thông đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Từng bước xây dựng các tuyến vận tải hành khách khối lượng lớn tại các đô thị loại I. Tiếp tục đầu tư phát triển mạng lưới đường sắt đô thị tại thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bảo đảm tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đạt 40% - 45%. Triển khai xây dựng một số đoạn trên tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, trong đó, ưu tiên đoạn Hà Nội - Vinh, Thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang; nhanh chóng phát triển mạng đường sắt đô thị làm nòng cốt phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô thị lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông với phương tiện vận tải, thiết bị quản lý, điều hành hiện đại và gắn kết với các trung tâm phân phối hàng hóa, cảng biển lớn, cảng cạn ICD.

Hoàn thiện mạng lưới cảng hàng không trong cả nước với quy mô hiện đại; hoàn thành mở rộng các cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất theo quy hoạch; đầu tư cảng hàng không quốc tế Long Thành (giai đoạn 1) có vai trò và quy mô ngang tầm với các cảng hàng không quốc tế lớn trong khu vực. Đầu tư hệ thống quản lý hoạt động bay hiện đại, bảo đảm tầm phủ của các trang thiết bị liên lạc, dẫn đường và giám sát theo yêu cầu nhiệm vụ trong toàn bộ vùng FIR của Việt Nam.

Nghiên cứu đầu tư các bến còn lại của cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, huy động vốn đầu tư cảng quốc tế Vân Phong, tiếp tục nâng cao hiệu quả khai thác khu bến cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải; tiếp tục đầu tư luồng Thị Vải để bảo đảm cho tàu 200.000T hành thủy 24/24 giờ; dành quỹ đất thích hợp phía sau cảng để xây dựng trung tâm phân phối, bốc xếp hàng hóa, dịch vụ hậu cảng, kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông quốc gia, từng bước tạo thành mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông logictics hiện đại, hiệu quả ngang tầm các nước trong khu vực. Tiếp tục đưa vào cấp kỹ thuật, bảo đảm chạy tàu 24/24 giờ các tuyến đường thủy nội địa chủ yếu. Huy động vốn đầu tư các tuyến đường thủy có nhu cầu vận tải lớn; dự án phát triển các hành lang đường thủy và lôgistíc khu vực phía Nam; cơ giới hóa bốc xếp các cảng, bến thủy nội địa hiện đại, có hiệu quả

Ưu tiên nguồn lực đầu tư hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, các trục cao tốc Đông - Tây và các tuyến giao thông kết nối đa phương thức theo quy hoạch; các sân bay quốc tế; hạ tầng các cảng biển lớn, các tuyến đường thủy nội địa có nhu cầu vận tải lớn; Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Lạng Sơn - Hà Nội, Móng Cái (Quảng Ninh) - Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ, Biên Hoà - Vũng Tàu, Thủ Thiêm - Long Thành... Tiếp tục triển khai đầu tư các tuyến đường sắt đô thị, tàu điện ngầm có quy mô vận tải lớn tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn khác.

Với chiến lược đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đến năm 2030 như trên, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó, cần giải quyết bài toán tổng thể, từ xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư, quản lý đất đai đồng bộ và đầy đủ, đến cân đối các nguồn lực đầu tư vào các lĩnh vực, huy động nguồn lực xã hội vào các lĩnh vực, công trình trọng yếu. Công tác quy hoạch, dự báo phải sát thực, có sự gắn kết và đồng bộ. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện, cần bố trí vốn tập trung cho các công trình động lực. Việc quản lý dự án, giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến độ cũng cần chuyên nghiệp hơn, cụ thể:

Thứ nhất, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư để đẩy nhanh tiến độ, rút ngắn thời gian thực hiện dự án. Việc lựa chọn dự án phải có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên vốn đầu tư hạ tầng trọng điểm, công trình có tính lan tỏa, động lực để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, là điểm nghẽn, nút thắt trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, do đó, đòi hỏi phải huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các tổ chức đoàn thể xã hội, Mặt trận Tổ quốc, nỗ lực thực hiện đúng tiến độ bàn giao mặt bằng phục vụ thi công theo đúng tiến độ.

Thứ ba, xây dựng cơ chế để bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước và nhà đầu tư. Trong bối cảnh hiện tại, ngoài nguồn vốn ngân sách, việc thu hút các nguồn vốn xã hội hóa để đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng gia thông đồng bộ, hiện đại là điều hết sức cần thiết, đòi hỏi phải sớm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý để khơi thông dòng vốn đầu tư này, theo hình thức đối tác công - tư (Public - Private Partnership - PPP).

Thứ tư, phân cấp, phân quyền mạnh cho địa phương có đủ năng lực và kinh nghiệm quản lý đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, quy định rõ trách nhiệm của địa phương về công tác đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Tăng cường giao các địa phương là cơ quan có thẩm quyền đối với các dự án đầu tư theo phương thức PPP, tạo đột phá đầu tư các tuyến đường bộ cao tốc, các địa phương ưu tiên bố trí ngân sách địa phương tham gia đầu tư để phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương khi tuyến đường bộ hình thành; Chính phủ hỗ trợ ngân sách Trung ương tùy theo tình hình cụ thể của địa phương.

Thứ năm, tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định có tính chất đặc thù như: đường cao tốc, cầu dài vượt biển, cảng biển...; các cơ chế để huy động các nguồn lực xã hội trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng đường bộ; ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành đặc biệt là hệ thống giao thông thông minh; điều chỉnh các loại hình kinh doanh vận tải cho phù hợp với thực tế. Đồng thời, điều chỉnh Luật Ngân sách Nhà nước theo hướng mở rộng phạm vi thu - chi ngân sách địa phương, tạo điều kiện để địa phương có nguồn lực đầu tư, quản lý bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh, nhằm linh hoạt trong việc sử dụng ngân sách Trung ương và địa phương. Cùng với đó, điều chỉnh Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Lâm nghiệp để tăng cường phân cấp cho địa phương quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất (rừng, lúa); khung chính sách đền bù, bồi thường giải phóng mặt bằng; báo cáo đánh giá tác động môi trường để rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục thẩm định, phê duyệt.

Tóm lại, kết cấu hạ tầng nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng là nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là một bộ phận quan trọng, đóng vai trò nòng cốt và là “xương sống” đối với sự phát triển kết cấu hạ tầng nói chung, tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia.

NGUYỄN VĂN NINH

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

 

 

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/xay-dung-ket-cau-ha-tang-giao-thong-de-phat-trien-kinh-te-ben-vung-o-viet-nam-nguyen-van-ninh-a9096.html