1. Thực trạng phát triển kinh tế số tại Việt Nam
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mang lại những thay đổi cơ bản về kinh tế - xã hội trên toàn cầu. Sự bùng nổ và phổ biến của các công nghệ kỹ thuật số: internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), in 3D, công nghệ sinh học và công nghệ Nano… đã mang lại nhiều cơ hội kết nối vào thị trường kinh tế số, cùng với đó là khả năng tiếp cận, chia sẻ thông tin, kiến thức với các cộng đồng có chung lợi ích và cùng hợp tác trong các dự án sản xuất.
Tại Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, nghị quyết, cho thấy sự quan tâm, chú trọng đối với sự phát triển kinh tế số: Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 41/NQ-CP, ngày 26/5/2016 về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin tại Việt Nam; Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 52/NQ-TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư lần thứ tư; Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31/3/2022 phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”…
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế só ở mức khá trong khu vực Đông Nam Á, với hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin khá tốt, phủ sóng rộng, mật độ người dùng cao. Khi các ngành công nghiệp chuyển đổi, người tiêu dùng Việt Nam đã, đang thích ứng nhanh chóng và chấp nhận các sản phẩm, dịch vụ mới của nền kinh tế số, từ đó góp phần thu hút đầu tư và phát triển nền kinh tế số của Việt Nam. Theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2020”, tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam luôn ở mức hai con số, dẫn đầu khu vực cùng với Indonesia. Quy mô kinh tế số tại Việt Nam từ 3 tỷ USD vào năm 2015 đã tăng lên 12 tỷ USD năm 2019 và 14 tỷ USD năm 2020, dự kiến đến năm 2025 bứt phá lên 52 tỷ USD, chủ yếu trong các lĩnh vực, như: thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ. Việt Nam là một trong những quốc gia thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, với số lượng dự án tăng lên đáng kể. Theo số liệu đưa ra trong báo cáo phục vụ Hội nghị Giao ban quản lý nhà nước quý 01/2023 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến hết tháng 02/2023, doanh thu công nghiệp ICT đạt 20,6 tỷ USD tăng trưởng 5% so với cùng kỳ.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2021, Việt Nam đạt kết quả tốt về kết nối, với thứ hạng cao về sử dụng điện thoại di động và có kết nối internet, mặc dù tốc độ kết nối vẫn chưa bằng các quốc gia đi trước… Năm 2021, Việt Nam có 68,72 triệu người dùng internet, chiếm 70,3% dân số (theo số liệu từ Trung tâm internet Việt Nam). Tuy nhiên, chỉ có 22% người Việt Nam thực hiện hoặc nhận thanh toán điện tử vào năm 2017 và chỉ có 41% người trưởng thành có tài khoản ngân hàng vào năm 2019. Tính đến tháng 8/2022, Việt Nam là quốc gia xếp thứ 2, với tỷ lệ 33,2% người thanh toán qua di động. Các quốc gia xếp tiếp theo lần lượt là Hàn Quốc (27,5%), Vương quốc Anh (26,7%), Ấn Độ (26,6%), Mỹ (25,6%).
Có thể thấy, kinh tế số đã mang lại rất nhiều ưu thế cho các công ty, tập đoàn lớn, như: tăng trưởng thương mại điện tử; thúc đẩy người dùng sử dụng internet và phát triển hệ thống hàng hóa và dịch vụ kinh tế số… Bên cạnh đó, phát triển kinh tế số còn giúp bảo đảm tính minh bạch, góp phần phòng, chống tham nhũng thông qua các hoạt động trực tuyến, giúp kiểm soát nền kinh tế tốt hơn.
2. Một số yêu cầu đặt ra đối với phát triển kinh tế số tại Việt Nam hiện nay
Một là, cần trang bị kiến thức, thống nhất về tư tưởng và hành động cho cán bộ, đảng viên về kinh tế số, cơ hội và thách thức của Việt Nam trong đối ngoại và hội nhập quốc tế trong môi trường kinh tế số, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ tư duy lãnh đạo quản lý và điều hành kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế số. Việt Nam cần xác định chiến lược phát triển và hội nhập kinh tế số là xu thế của thời đại, là hướng đi quan trọng và cần thiết trong định hướng phát triển quốc gia và hội nhập quốc tế, là cơ hội cho Việt Nam bứt phá. Môi trường Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số cần một cuộc cách mạng trong tư duy quản lý và xây dựng thể chế, chính sách để tạo môi trường và không gian cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển. Mọi biểu hiện của tư duy “xin - cho”, bảo vệ lợi ích nhóm hay mệnh lệnh hành chính gây phiền hà theo kiểu không quản hay không nắm được thì hạn chế, cấm đoán không còn phù hợp đối với quản trị quốc gia, quản lý kinh tế và doanh nghiệp trong kinh tế số.
Hai là, xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế mới trong thời đại kinh tế số, thực hiện “đổi mới” và “hội nhập” vào thị trường kinh tế số toàn cầu, đi đôi với kích thích phát triển và hỗ trợ đúng mức để nuôi dưỡng và thúc đẩy các doanh nghiệp số trong nước không ngừng lớn mạnh. Chiến lược hội nhập quốc tế cần kết hợp vừa “mở cửa, hội nhập” thị trường kinh tế số, vừa phải có chiến lược thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam thông qua chính sách hỗ trợ và ưu đãi có chọn lọc, nhất là với những doanh nghiệp công nghệ nội địa tiềm năng vươn lên chiếm lĩnh thị trường trong nước và sớm đủ sức vươn ra cạnh tranh với bên ngoài.
Xây dựng quy hoạch và chiến lược hội nhập, thu hút đầu tư trong bối cảnh mới, theo đó cần chủ động nhắm tới các tập đoàn, doanh nghiệp lớn về công nghệ của thế giới, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng một cách hợp lý, tránh cạnh tranh giữa các địa phương. Trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã tới lúc cần cơ cấu lại mạnh mẽ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, sàng lọc, lựa chọn và phân loại cơ cấu đầu tư theo hướng không dễ dãi trong thu hút đầu tư, hướng tới các dự án đầu tư có chất lượng, những ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp công nghệ cao, cam kết lâu dài, mang lại giá trị gia tăng lớn gắn với định hướng vào R&D tại chỗ và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam, tránh việc trở thành nơi chuyển giao các doanh nghiệp và công nghệ lạc hậu của các nước.
Ba là, chủ động tìm hiểu và tham gia các nỗ lực quốc tế, các cơ chế, sáng kiến hợp tác, liên kết quốc tế, khu vực, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp chính sách với các quốc gia trên bình diện cả song phương lẫn đa phương ở các lĩnh vực liên quan đến phát triển kinh tế số và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ liên quốc gia từ quá trình phát triển kinh tế số hiện nay. Các lĩnh vực hợp tác quan trọng, bao gồm thu thuế xuyên biên giới qua không gian mạng, bảo đảm an ninh an toàn không gian mạng, bảo mật dữ liệu và quyền riêng tư, ngăn chặn và chống các loại tội phạm công nghệ, tạo thuận lợi cho kết nối hạ tầng và thanh toán số nhằm hỗ trợ các giao dịch xuyên quốc gia, bảo vệ người tiêu dùng xuyên biên giới, xử lý tranh chấp pháp lý về quyền và lợi ích kinh tế qua không gian mạng xuyên biên giới, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ... Trong khía cạnh này cần coi trọng thúc đẩy hợp tác trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu, như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC... nhằm xây dựng những quy tắc phối hợp và ứng xử chung, các hiệp định, công ước và thỏa thuận hợp tác, phối hợp trên những vấn đề liên quan nảy sinh từ sự phát triển của kinh tế số.
Bốn là, quan tâm thúc đẩy cải cách và số hóa những cơ quan, lĩnh vực hoạt động liên quan đến đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế. Các cơ quan làm đối ngoại trong nước cũng như các cơ quan đại diện của Nhà nước Việt Nam ở nước ngoài cần đi đầu trong công tác số hóa ngành bao gồm việc xây dựng kết cấu hạ tầng dữ liệu quốc gia cho ngoại giao số, xây dựng chiến lược quản trị công tác đối ngoại, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính liên quan đến đối ngoại, như đơn giản hóa, số hóa, điện tử hóa, minh bạch hóa thông tin, đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước hợp tác đầu tư với bên ngoài... Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mạnh mẽ ngoại giao số, đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ nhân lực làm công tác đối ngoại, nhất là cán bộ các cơ quan đại diện của Nhà nước Việt Nam ở nước ngoài có phẩm chất chính trị, có kiến thức, am hiểu về kinh tế số, có tư duy, tầm nhìn mới đáp ứng yêu cầu ngoại giao số, có khả năng bảo vệ, hỗ trợ và thúc đẩy các lợi ích của quốc gia và doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường hội nhập vào kinh tế số toàn cầu.
Năm là, cần có các chính sách và quy phạm pháp luật linh hoạt và thích ứng để khuyến khích sự đầu tư và phát triển trong lĩnh vực kinh tế số, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và doanh nghiệp thông qua việc thi hành các quy định và luật pháp liên quan. Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế số như tăng cường hợp tác công tư để thúc đẩy sự phát triển của các dự án và sáng kiến kinh tế số. Khuyến khích doanh nghiệp công nghệ và khởi nghiệp số như: tạo ra môi trường kinh doanh thân thiện, ổn định và hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghệ và các start-up, khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo. Cung cấp các cơ hội tài chính, cơ hội hợp tác giữa doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu và phát triển. Hỗ trợ cho việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm công nghệ mới. Nâng cao hiệu quả các gói chính sách hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp, đặc biệt là các chính sách về vốn và nhân lực. Đồng thời, thiết lập các chính sách hỗ trợ cho các mô hình kinh doanh mới và khuyến khích sản phẩm công nghệ của Việt Nam. Đẩy mạnh việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng thương mại điện tử và công nghệ số.
ThS. PHẠM THỊ HƯƠNG
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/phat-trien-kinh-te-so-o-viet-nam-thuc-trang-va-yeu-cau-dat-ra-a8977.html