Phát huy vai trò của nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay

CT&PT - Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu với những yêu cầu cao về tiềm lực trí tuệ và khoa học công nghệ đang đặt ra những thử thách lớn đối với phát triển nguồn nhân lực, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao chiếm vị trí hàng đầu.

images2355674-nhanluc-1730090560.jpg
 

1. Vai trò nguồn nhân lực đối với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay 
Trong mọi thời đại, nguồn nhân lực luôn đóng vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển của một đất nước. Bởi vì, con người không chỉ là một yếu tố đầu vào của quá trình như các nguồn lực khác mà với khả năng, trình độ của mình con người quyết định mức độ hiệu quả của khai thác và sử dụng các nguồn lực khác. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là lực lượng lao động có khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ khoa học công nghệ mới, có tác phong kỷ luật, đạo đức trong công việc và có khả năng tư duy đột phá. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ có vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế, mà chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì sẽ dẫn đến ý thức xã hội càng phát triển, mối quan hệ giữa người với người tốt hơn và thúc đẩy sự phát triển nhanh của xã hội. Điều này được thể hiện rõ qua vai trò to lớn của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và bảo vệ môi trường của mọi quốc gia.
Thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể  không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện: (1) Quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn. (2) Quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. (3) Quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo. (4) Quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận quan trọng để đẩy nhanh tốc độ ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào các ngành sản xuất. Đây chính là tiền để cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến lượt nó, cơ cấu kinh tế càng tiến bộ càng hiện đại càng đòi hỏi khả năng thích ứng cao hơn của nguồn nhân lực cả về trình độ học vấn, trí tuệ, năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, thể lực cũng như phẩm chất tâm sinh lý, ý thức, lối sống, đạo đức. Như vậy, quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyển dịch cơ cấu kinh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quan hệ qua lại, thúc đẩy lẫn nhau. 
Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao là chìa khóa của sự thành công, là giải pháp mang tính chất đột phá của quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Vùng.
Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng yêu cầu chúng ta phải sử dụng tối ưu tất cả các nguồn lực xã hội hiện có để có thể tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh của cả nền kinh tế xã hội. Các nguồn lực đó bao gồm nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên…
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững. 
Do vậy, phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đặc biệt quan trọng cho sự thành công của quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, cần tạo ra và cải thiện tất cả các điều kiện cần thiết để phát triển nguồn nhân lực nhanh, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực chủ yếu tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức.
Nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững của các quốc gia chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không chỉ là nguồn của cải vật chất. Do vậy, hình thành và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao là yếu tố quan trọng nhất không chỉ trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mà còn tạo cơ hội tiếp cận kinh tế tri thức.
Thực tế, quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở các quốc gia trên thế giới cho thấy: trong tiến trình chuyển đổi, nếu nước nào biết dựa vào việc khai thác và sử dụng năng lực của nguồn nhân lực, thì luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định như Nhật Bản, Phần Lan, Ireland...là những nước nghèo tài nguyên nhất, nhưng đã vươn lên thành những quốc gia giàu có hàng đầu.
Như vậy, nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững của các quốc gia chính là nguồn nhân lực, chứ không chỉ là nguồn của cải vật chất. Do vậy, hình thành và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao là yếu tố quan trọng nhất không chỉ trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mà còn tạo cơ hội tiếp cận kinh tế tri thức.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực góp phần phát triển bền vững. Phát triển bền vững là một trong những mục tiêu của quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
Phát triển nguồn nhân lực, trước hết tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội tìm việc và nâng cao thu nhập cho gia đình và bản thân là nền tảng của ổn định xã hội. Thực tế cho thấy, thất nghiệp cao ở hầu hết các quốc gia là nguyên nhân quan trọng của biểu tình, bạo loạn gây mất ổn định chính trị - xã hội. Mặt khác, nguồn nhân lực chất lượng cao càng phát triển, trình độ văn minh, văn hóa càng cao thì con người sống càng lịch sự, tin tưởng và hợp tác với nhau chặt chẽ hơn, sống có trách nhiệm hơn với chính bản thân và cộng đồng. Người có trí thức thường cởi mở hơn, quan tâm đến sức khỏe và vì vậy sống khỏe hơn và hạnh phúc hơn. Người có tri thức thích tham gia vào các hoạt động xã hội và ít phạm pháp hơn. Do vậy, góp phần làm giảm sự chi tiêu lợi tức xã hội như trợ cấp thất nghiệp, chi phí điều trị bệnh, chi phí cho việc đảm bảo an ninh trật tự… Thực tế cũng cho thấy, nếu cha mẹ có học vấn cao thì con cái cũng ít có nguy cơ thất học và chúng nhận được sự quan tâm chăm sóc nhiều hơn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vốn nhân lực được nâng lên gắn với giáo dục - đào tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn. Nó đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc gia trên đầu người thông qua nâng cao kỹ năng và khả năng sản xuất của người lao động. Tuy nhiên nếu một quốc gia, một địa phương chỉ chú trọng phát triển một bộ phận nguồn nhân lực chất lượng cao mà không đồng thời phát triển nguồn nhân lực nói chung lên một cách tương đối thì sẽ gây ra phân tầng xã hội quá chênh lệch. Điều này có thể dẫn đến bất bình đẳng ngày càng cao hơn, có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội. Do vậy, để phát triển xã hội bền vững cần phải phát huy tác động lan tỏa của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với toàn cộng đồng, xã hội.
Đối với phát triển bền vững về môi trường: Các ngành, các doanh nghiệp có đội ngũ lao động có trình độ cao sẽ thường xuyên đổi mới công nghệ để giảm mức độ tiêu hao nguyên nhiên liệu trong quá trình sản xuất. Đây là điều kiện để giảm mức khai thác tài nguyên thiên nhiên và mức độ rác thải ra môi trường. Điều này có tác động kép đối với bảo vệ môi trường. Ngày nay, biến đổi khí hậu và những vấn đề về môi trường đang đặt ra yêu cầu phải xây dựng các mô hình tăng trưởng xanh. Để làm được điều đó, cần phải có những nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng được đưa vào thực tiễn, đòi hỏi phải có các nhà khoa học, chuyên gia có đủ phẩm chất về trí tuệ, sức khỏe và đạo đức. Do vậy, phát triển nguồn chất lượng cao vừa là yêu cầu vừa là động lực của phát triển bền vững ở phạm vi toàn cầu, quốc gia và ở một địa phương.
Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
2. Yêu cầu đặt ra của quá trình đổi mới mô hình tưởng trưởng kinh tế đối với phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Quá trình đổi mới mô hình tưởng trưởng kinh tế đặt ra yêu cầu đối với nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay như sau:
Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sử dụng công nghệ mới, chuyến dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế.
Quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta vừa có bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt, tức là vừa chuyển đổi mô hình tăng trưởng chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu vừa phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, từ đó nâng cao năng lực sản xuất của những ngành công nghiệp cơ bản, giải quyết nhiệm vụ cấp bách mà xã hội đặt ra là nâng cao mức sống của người dân, xóa đói giảm nghèo, việc làm,... vừa phát triến nhanh các ngành kinh tế hiện đại, dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin đế hiện đại hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh nền kinh tế, tạo ngành nghề mới, việc làm mới, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực chất của quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng ngành và cả nền kinh tế quốc dân theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức trong từng sản phấm sản xuất, gia tăng giá trị. 
Tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, phân công lao động xã hội có những thay đối phù hợp. Cơ cấu lao động sẽ chuyển dịch theo hướng tăng lao động dịch vụ và nông nghiệp. Năng suất lao động trong hai khu vực này cũng sẽ tăng tương ứng.
Phát triển nguồn nhân lực phải phù hợp với định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay.
Những xu hướng biến đổi trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện nay làm cho nguồn nhân lực đông và rẻ không còn hoàn toàn chiếm ưu thế nữa. Yêu cầu nguồn nhân lực  cho  công  nghiệp  hóa  hiện  nay  phải  là những người lao động được đào tạo với trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao; họ phải được phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp lý, phù hợp với trình độ công nghệ và cơ cấu sản xuất. Vì vậy cần phải có nhận thức và đổi mới việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực để thích ứng và phát triển.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo.
Giáo dục - đào tạo nước ta đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn: Một mặt phải khắc phục những yếu kém bất cập, phát triến mạnh mẽ để thu hẹp khoảng cách với những nền giáo dục tiên tiến cũng đang đối mới và phát triến. Mặt khác, phải khắc phục sự mất cân đối, giữa yêu cầu phát triển nhanh quy mô và nguồn lực còn hạn chế đòi hỏi gấp rút nâng cao chất lượng, giữa yêu cầu vừa tạo được chuyển biến cơ bản, toàn diện vừa giữ được sự ổn định tương đối của hệ thống giáo dục.
Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình chuyển đổi mô hình tưởng trưởng kinh tế dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đang đặt ra những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực của cả nước trong việc khai thác và phát huy tiềm năng tri thức con người. Do đó phải tăng cường đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật các cấp trình độ (công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học). Để thực hiện được yêu cầu này, giáo dục phổ thông có vai trò quan trọng trong tạo nguồn đầu vào cho quá trình đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn - kỹ thuật. Nhận thức được vai trò của giáo dục và đào tạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta xác định “Nâng cao giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”. Yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức của nước ta và phát triển nhanh của khoa học - công nghệ đã làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động trí tuệ, làm cho lao động trí tuệ trở thành nhân tố quan trọng nhất trong quá trình phát triển kinh tế.
Phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải giải quyết các yêu cầu sau:
Một là, yêu cầu của mục tiêu hình thành một xã hội và một nền kinh tế phát triển, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi nguồn nhân lực phải có phẩm chất cao về kỹ năng và phong cách.
Hai là, yêu cầu của chính sự lựa chọn mô hình chuyển đổi mô hình tưởng trưởng kinh tế của Việt Nam theo phương thức phát triển rút ngắn, “đi tắt, đón đầu”, tạo vị thế vững chắc trong phân công lao động quốc tế và khu vực. Do vậy, điều kiện tiên quyết là phải có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ba là, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng đang thực hiện một cách quyết liệt, quá trình này phải được thực thi bởi nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng lao động hiện đại.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn.
Đó là sự tăng cường hợp tác phân công lao động quốc tế. Cơ cấu nguồn nhân lực của Vùng phải từng bước biến đổi cả về chất và lượng, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời gian tới, với yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhu cầu về lao động chất lượng cao ngày càng tăng. Đây là một thách thức không nhỏ buộc nước ta phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được các tiêu chuẩn lao động quốc tế về trình độ, tay nghề và về các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo.


ThS. ĐINH VIẾT PHƯƠNG

Đại học Duy Tân
 

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/phat-huy-vai-tro-cua-nguon-nhan-luc-dap-ung-yeu-cau-doi-moi-mo-hinh-tang-truong-kinh-te-o-viet-nam-hien-nay-a8890.html