Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em của một số quốc gia - Bài học tham khảo cho Việt Nam

CT&PT - Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em của một số nước, Việt Nam có thể tham khảo, vận dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, đó là có định hướng chiến lược đúng đắn và phương pháp tiếp cận hợp lý để giải quyết những vấn đề mang tính kỹ thuật về bảo vệ trẻ em.

img-1177-1729917734.jfif
 

1. Kinh nghiệm của mộ số quốc gia trên thế giới

Trong bối cảnh hiện nay, các quốc gia đang ngày càng xích lại gần nhau hơn do xu thế hội nhập và toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xu thế này đã và đang tác động mạnh mẽ, nhiều mặt đến từng quốc gia, từng con người, từng gia đình và từng trẻ em. Một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang mang lại cho trẻ em trên toàn thế giới những điều kiện được chăm sóc và cơ hội phát triển tốt hơn. Nhưng ngược lại, xu thế này cũng đặt ra những nguy cơ, rủi ro và hiểm họa cho việc bảo vệ trẻ em.

Vấn đề bảo vệ trẻ em ở bất cứ quốc gia nào cũng đều rất được coi trọng. Các quốc gia đều hướng tới việc xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách và pháp luật để phát huy cao nhất những ảnh hưởng tích cực của toàn cầu hóa nhưng đồng thời cũng phải tạo môi trường an toàn, lành mạnh cho trẻ em phát triển, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn hợp lý và hạn chế các tiêu cực đối với trẻ em nhằm bảo vệ trẻ em khỏi sự bóc lột, xâm hại, bạo lực hay lạm dụng, sao nhãng.
Kinh nghiệm của một số nước ở Châu Âu như: Nga, Úc, Anh, Đức, Thụy Điển... đặc biệt quan tâm đến xây dựng khung pháp lý thân thiện với trẻ em; hệ thống phúc lợi xã hội cho trẻ em và phát triển mạng lưới trung tâm công tác xã hội, văn phòng tư vấn, điểm công tác xã hội và đội ngũ cán bộ xã hội mang tính chuyên nghiệp hoạt động tại các xã, phường. Thông thường cứ 2.000 - 3.000 dân có một cán bộ xã hội chuyên nghiệp và 4 - 5 cộng tác viên và cứ 30.000 - 50.000 dân có một trung tâm công tác xã hội. Việc bảo vệ trẻ em được thực hiện chủ yếu bởi các trung tâm công tác xã hội, các cơ sở trợ giúp trẻ em và các cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em và một phần ủy quyền cho các tổ chức phi Chính phủ (NGO). Luật pháp quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em, trong đó vai trò của nhân viên công tác xã hội được đề cao; mọi vấn đề liên quan đến trẻ em đều phải có tiếng nói của nhân viên công tác xã hội; trong trường hợp tách con ra khỏi cha, mẹ, người chăm sóc hoặc xử lý trẻ em vi phạm pháp luật thì nhân viên công tác xã hội thường giữ vai trò quyết định1.

Ở Mỹ, Cơ quan bảo vệ trẻ em (Child Protective Services - CPS) là một cơ quan Chính phủ chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. CPS được pháp luật trao cho nhiệm vụ giám sát và bảo đảm trẻ em có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Công việc của cơ quan này thường là xác minh làm rõ đơn tố cáo về hành vi lạm dụng và bỏ mặc trẻ em. Pháp luật quy định khá chặt chẽ về trình tự, thủ tục bảo vệ trẻ em trong trường hợp khẩn cấp trên nguyên tắc mọi ưu tiên dành cho trẻ em2.

Ở các nước trong khu vực Châu Á như Trung Quốc, Hồng Công, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philipines... tùy theo hoàn cảnh kinh tế và xã hội mà việc bảo vệ trẻ em được thực hiện theo những mô hình ưu tiên khác nhau. Hầu hết các quốc gia này đều hướng tới việc xây dựng "hệ thống bảo vệ trẻ em" có tính đồng bộ; đào tạo đội ngũ cán bộ xã hội làm việc với trẻ em; duy trì các cơ sở trợ giúp trẻ em và mô hình gia đình thay thế cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Malaysia và Hồng Công đặc biệt quan tâm tới mô hình gia đình chăm sóc thay thế, trung tâm công tác xã hội với trẻ em; trung tâm trẻ em đường phố, trung tâm phục hồi trẻ em nghiện ma túy. Thái Lan và Philipines lại chú trọng nhiều hơn vào các mô hình trợ giúp trẻ em và hỗ trợ gia đình của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Malaysia và Singapore là 02 quốc gia thuộc khối ASEAN đã có những bước đi sớm hơn Việt Nam trong công tác bảo vệ trẻ em, cũng như xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em. Kinh nghiệm của hai quốc gia này về bảo vệ trẻ em có nhiều bài học để Việt Nam tham khảo, nhất là trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em. Luật Trẻ em của Malaysia (Act 611 Child Act 2011) và Luật Trẻ em và người trẻ tuổi của Singapore (Children and Young Persons Act Chapter 38 năm 1993) tuy có tên gọi là luật trẻ em nhưng nội dung của các luật này chủ yếu đề cập đến vấn đề bảo vệ trẻ em.

Luật của Singapore quy định trẻ em là người dưới 14 tuổi. Luật của Malaysia không định nghĩa trẻ em nhưng lại quy định cụ thể độ tuổi của trẻ em khi gửi đến các dịch vụ, trung tâm, trường học. Ví dụ: trẻ em dưới 10 tuổi thì không được đưa vào các trường giáo dưỡng; trẻ em dưới 14 tuổi thì không được đưa vào trường cách ly/giam giữ trẻ em vi phạm pháp luật.
Singapore quy định 9 nhóm đối tượng cần sự chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, gồm: (i) Trẻ không có bố mẹ hoặc người bảo hộ; (ii) Trẻ em bị bỏ rơi; (iii) Cha, mẹ, người bảo hộ không phù hợp, không có khả năng chăm sóc, sao nhãng làm cho trẻ em rơi vào tình trạng có những mối quan hệ xấu, đe doạ đến đạo đức hoặc không thể chế ngự được; (iv) Trẻ đã bị hoặc có nguy cơ cao bị đối xử tồi tệ; (v) Trẻ em cần được khám, điều trị để bảo đảm sức khoẻ hoặc sự phát triển nhưng cha, mẹ hoặc người bảo hộ sao nhãng hoặc từ chối làm những công việc đó; (vi) Trẻ có hành vi và nhân cách gây nguy hiểm cho bản thân người khác mà cha, mẹ, người bảo hộ không thể hoặc không muốn hoặc thất bại trong việc hỗ trợ trẻ; (vii) Trẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi những mâu thuẫn dai dẳng giữa trẻ và cha, mẹ, người bảo hộ hoặc giữa cha, mẹ hoặc người bảo hộ hoặc những mâu thuẫn, đổ vỡ trong gia đình dẫn đến thương tổn về tình cảm; (viii) Trẻ sống trong môi trường hoặc có liên quan, bị ảnh hưởng bởi người phạm tội hoặc những hành vi phạm tội; (ix) Trẻ sống lang thang không nơi ở, không nguồn sống, trẻ xin ăn, hát rong, bán xổ số, bán hàng rong, đánh bạc, sử dụng các thuốc kích thích.

Malaysia phân loại các nhóm trẻ em cần được bảo vệ theo các mức độ bản thân trẻ hoặc hoàn cảnh gây tổn hại cho trẻ; gồm các nhóm như: (i) Nhóm có nguy cơ cần được chăm sóc bảo vệ gồm trẻ có nguy cơ bị tổn hại về thể chất, tinh thần, tình cảm; trẻ bị sao nhãng, không được chăm sóc đầy đủ; trẻ không nơi nương tựa; trẻ mâu thuẫn với cha mẹ, người bảo hộ và gia đình; trẻ sống trong môi trường phạm tội, môi trường mại dâm; trẻ xin ăn, hát rong, bán xổ số; (ii) Nhóm trẻ cần được bảo vệ và phục hồi: trẻ tham gia vào các hoạt động tình dục; trẻ liên quan hoặc sống trong các nhà chứa, trong đó có nhóm trẻ cần được bảo vệ khẩn cấp là những trẻ bị xâm hại tình dục, trẻ mang thai, sinh con hoang đã được thông báo và xác nhận; (iii) Nhóm trẻ vượt quá tầm khống chế (children beyond control): trẻ có các hành vi vượt quá tầm khống chế của cha mẹ, người bảo hộ (tương tự đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật trong quy định của pháp luật Việt Nam); (iv) Nhóm trẻ em bị buôn bán, bắt cóc;...

Một số nước phát triển khác như Cộng hòa Liên bang Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc… có hệ thống bảo vệ trẻ em khá hoàn chỉnh, từ luật pháp chính sách, đến các dịch vụ mang tính hệ thống, liên tục và cấu trúc tổ chức khá hoàn chỉnh. Hệ thống bảo vệ trẻ em được vận hành cùng với các hệ thống khác như chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em. Có thể nói đây là 3 hệ thống chính thức thực hiện các chức năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em. Cả ba hệ thống này đều được vận hành trên phạm vi toàn quốc, có sự phân cấp đến cộng đồng, gia đình và được quy định khá cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu kỹ thuật hướng dẫn thực hành cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Các quốc gia này đều tổ chức bảo vệ trẻ em theo từng cấp độ cụ thể và bảo đảm các quy trình như: Đánh giá nguy cơ; tổ chức quản lý trường hợp; thực hiện quy trình can thiệp, trợ giúp trẻ em trong trường hợp cần sự bảo vệ khẩn cấp,... Đồng thời áp dụng các tiêu chuẩn thực hành cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em tốt nhất; tiêu chuẩn các vị trí nhân lực trong hệ thống bảo vệ trẻ em, trong đó nguồn nhân lực bảo vệ, chăm sóc trẻ em có trình độ chuyên môn có vai trò rất quan trọng.

Hầu hết các cán bộ làm việc trong hệ thống bảo vệ trẻ em đều được đào tạo chính quy về công tác xã hội ở trình độ đại học và sau đại học, trong đó có chuyên ngành về công tác xã hội trẻ em. Công tác xã hội ở các nước này được coi là một nghề, có mã nghề nghiệp, tiêu chuẩn nghiệp vụ cho các vị trí việc làm, có quy tắc đạo đức nghề nghiệp, hệ thống thang bảng lương và hiệp hội công tác xã hội để bảo vệ quyền lợi;... Đối với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội có trách nhiệm bảo vệ trẻ em ở cộng đồng đều có cán bộ xã hội chuyên nghiệp hoặc được đào tạo về các lĩnh vực chuyên môn phù hợp có liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em và người chưa thành niên. Những cán bộ này kết nối với nhau thông qua mối quan hệ cộng tác cùng nhau bảo vệ trẻ em và hình thành nhóm công tác liên ngành ở cộng đồng và các cấp trên cộng đồng.

2. Giá trị kham thảo đối với Việt Nam

Nghiên cứu về vấn đề pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em của một số nước trên thế giới cho thấy, những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em trước hết phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản, đó là định hướng chiến lược đúng đắn và phương pháp tiếp cận hợp lý để giải quyết những vấn đề mang tính kỹ thuật về bảo vệ trẻ em.

Quốc gia nào cũng rất coi trọng vấn đề bảo vệ trẻ em và đều cố gắng xây dựng khung pháp lý thân thiện với trẻ em và hệ thống pháp luật, chính sách phù hợp với trẻ em nhằm tạo dựng môi trường an toàn, lành mạnh và chủ động phòng ngừa, ngăn chặn bạo lực, xâm hại, hay lạm dụng, sao nhãng đối với trẻ em, đặc biệt là các quốc gia Âu - Mỹ.

Pháp luật quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em, trong đó vai trò của nhân viên công tác xã hội được đề cao; mọi vấn đề liên quan đến trẻ em đều phải có tiếng nói của nhân viên công tác xã hội, đặc biệt là những trường hợp tách con ra khỏi cha, mẹ hoặc xử lý trẻ em vi phạm pháp luật.

Vấn đề bảo vệ trẻ em được các nước xây dựng và vận hành theo hệ thống bảo vệ trẻ em đúng quan điểm và định hướng của Unicef; đồng thời xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội dành cho trẻ em. Hoạt động bảo vệ trẻ em chủ yếu thông qua các trung tâm công tác xã hội và mạng lưới nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp tại cộng đồng. Sự can dự của các cơ quan quản lý nhà nước không nhiều và phần lớn được ủy quyền cho các tổ chức phi Chính phủ.
Những kinh nghiệm quốc tế trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em rất phong phú và đa dạng, xuất phát từ những điều kiện kinh tế - xã hội và những đặc điểm riêng của mỗi quốc gia. Có nước quan tâm tới mô hình gia đình chăm sóc thay thế, trung tâm công tác xã hội với trẻ em; trung tâm trẻ em đường phố, trung tâm phục hồi trẻ em nghiện ma túy (như Malaysia, Hồng Công) nhưng có nước lại chú trọng nhiều hơn vào các mô hình trợ giúp trẻ em và hỗ trợ gia đình của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (như Thái Lan, Philipines). Một số quốc gia châu Âu thì quan tâm phát triển mạng lưới trung tâm công tác xã hội, văn phòng tư vấn, điểm công tác xã hội và đội ngũ nhân viên công tác xã hội mang tính chuyên nghiệp hoạt động tại cộng đồng. Nhưng các quốc gia đều quan tâm, chú trọng biện pháp phòng ngừa, tạo môi trường sống an toàn cho trẻ em.
Như vậy, mỗi quốc gia có tính chất đặc thù khác nhau và mô hình hoạt động thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em cũng có khác nhau nhưng những kinh nghiệm có tính phổ biến thì chúng ta có thể tham khảo để vận dụng cho công tác thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em ở Việt Nam.


1. Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) (2011), Hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
2. Quốc Đạt (2018), Trẻ em ở Mỹ được bảo vệ như thế nào?, tại trang https://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/tu-van/tre-em-o-my-duoc-bao-vethe-nao-3764190.html?utm_source=search_vne

TS. HỨA HUY HOÀNG

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/kinh-nghiem-thuc-hien-phap-luat-ve-bao-ve-tre-em-cua-mot-so-quoc-gia-bai-hoc-tham-khao-cho-viet-nam-a8879.html