Những yếu tố về nhà nước pháp quyền trong các quan điểm trước Mác được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng

CT&PT - Để thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, việc kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng. Mặc dù vậy, trước chủ nghĩa Mác - Lênin, lịch sử xã hội loài người đã tồn tại những yếu tố về tư tưởng, quan điểm chứa đựng các dấu hiệu của nhà nước pháp quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trước Mác

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc tài, vô chính phủ, vô pháp luật. Những quan điểm tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã hình thành, tồn tại từ thời kỳ cổ đại và thời kỳ trung đại.

Trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện những mầm mống được thể hiện trong đời sống xã hội như sau:

Thời kỳ cổ đại phương Đông: trong xã hội chiếm hữu nô lệ (ở Trung Quốc) đã diễn ra những cuộc đấu tranh quyết liệt về việc Nhà nước phải trị nước, an dân bằng những cách thức nào để phù hợp với một đất nước có các trường phái chính trị - xã hội khác nhau. Các nhà tư tưởng lúc bấy giờ đã tìm kiếm những phương thức cai trị xã hội hữu hiệu, chủ trương dùng pháp luật, đạo đức, lễ, nhạc… để trị nước, trong đó tiêu biểu là những quan điểm của trường phái Nho gia và  Pháp gia. Trường phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập, ban đầu chủ trương “nhân trị”, “lễ trị” hoàn toàn, nhưng về sau đã tìm đến những yếu tố thích hợp của tư tưởng pháp trị. “Lễ trị” của Khổng Tử có tác dụng sâu sắc và bao quát, vừa là sự cụ thểhóa, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và “chính danh”, nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội. Kế tục quan điểm của trường phái Nho gia, Mạnh Tử và Tuân tử đã xác định rõ vị trí, vai trò của nhân dân, đề cao việc sử dụng pháp luật kết hợp với lễ trị để trị nước. Quan điểm của trường phái Pháp gia lại đối lập với quan điểm lễ trị, đức trị của Nho gia, khi xem pháp luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời cuộc - “thời biến, pháp biến”. Đây chính là sự đại diện cho lợi ích của giai cấp địa chủ mới lên trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc, với chủ trương trị nước bằng luật pháp và được phát triển mạnh mẽ bởi Hàn Phi Tử. Giá trị hiện thực của tư tưởng pháp trị là đã giúp Tần Thủy Hoàng thu giang sơn về một mối. Như vậy, có thể thấy, trong quan điểm của thời kỳ cổ đại phương Đông, vai trò của pháp luật trong quản lý đời sống xã hội luôn được khẳng định. Tuy nhiên, pháp gia xem việc dùng hình phạt trong pháp luật dù nặng hay nhẹ đều là việc hiển nhiên, còn Nho gia khi dùng đến hình phạt trong pháp luật vẫn còn có sự băn khoăn, day dứt, bởi Nho gia cho rằng việc dùng hình phạt không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện.

Thời kỳ cổ đại phương Tây: những tư tưởng khởi đầu về nhà nước pháp quyền được hình thành từ rất sớm ở Hy Lạp và La Mã cổ đại. Các nhà triết học cổ đại như Socrates, Platon và Aristotle là những người đầu tiên đưa ra ý tưởng về ưu thế của luật. Platon đã phân biệt hai loại kết cấu nhà nước: loại thứ nhất đề cao những nhà cầm quyền, loại thứ hai đề cao các luật. Hướng vào loại thứ hai, ông cho rằng “sự sụp đổ nhanh chóng của nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không được đề cao và nằm dưới quyền lực của một ai đó. Còn ở nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật, thì tôi thấy ở đó có sự cứu thoát nhà nước và những lợi ích mà chỉ có Thượng đế mới có thể tặng cho các nhà nước”1.

Theo Aristotle, người sáng lập ra chính trị học phương Tây luật phải thống trị tất cả. Nhữngnơi không có quyền lực của luậtsẽ không có bất cứ hình thức nào của chế độ nhà nước. Ông xem nhà nước là toàn thể các công dân, như là xã hội công dân.

Socrates, Platon, Democritus, Aristotle, Polibius và Ciciro là những người đã đưa ra quan niệm về sự liên hệ tương tác giữa pháp luật và quyền lực nhà nước , coi nhà nước như một tổ chức thực hiện hoạt động của mình trên cơ sở luật. Theo họ, quyn lc nhà nưc đưc xem là công bng khi nó tha nhn lut pháp, đng thi b hn chế bi lut pháp. Socrates, Polibius và Ciciro đưa ra các luận điểm về vị thế, quyền lực của luật như là sự kết hợp giữa sức mạnh và luật pháp, về sự phân biệt giữa các hình thức cầm quyền đúng đắn và không đúng đắn. Democritus và các nhà ngụy biện thì đưa ra các luận điểm về vai trò của luật pháp trong các loại hình nhà nước, về mối quan hệ giữa các quyền tự nhiên và quyền do ý chí xác lập. Mt s nhà ngy bin đưa ra tư tưng khi đu v s bình đng ca các cá nhân, v quyn t nhiên, đc biệt là Polybius - một sử gia Hy Lạp cổ đại đã đưa ra tư tường phân quyền mà sau này được Montesquieu kế thừa trong tác phẩm Tinh thn pháp lut. Ciciro - nhà tư tưởng chính trị nổi tiếng trong thời kỳ La Mã cổ đại, coi nhà nước là “công việc của nhân dân”, như sự liên kết về mặt luật và như là “trật tự luật pháp chung”. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ Hy Lạp, La Mã cổ đại có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển các quan niệm về nhà nước pháp quyền sau này.

Đến thời kỳ Trung đại, theo cách phân kỳ lịch sử của quan điểm mácxít , thời kỳ này gồm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (từ cuối thế kỷ V đến giữa thế kỷ thứ XI) là giai đoạn Trung cổ ban đầu hay còn gọi là thời kỳ chế độ phong kiến mới được xác lập như một hình thái kinh tế - xã hội; Giai đoạn thứ hai (từ giữa thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XV) là giai đoạn phát triển đầy đủ của chế độ phong kiến, là thời kỳ cực thịnh của chế độ đó; Giai đoạn thứ ba (từ thế kỷ thứ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVII) được gọi là giai đoạn của thời kỳ hậu Trung cổ, là thời kỳ tàn lụi của chế độ phong kiến và khởi đầu cho quá trình hình thành chế độ tư bản chủ nghĩa..

“Đêm trung cổ” đã kéo dài hàng nghìn năm dưới ách thống trị của chế độ chuyên chế vương quyền và thần quyền. Sự hiện diện của các nhà nước phong kiến ở phương Đông và phương là một trong những nguyên dân của tình trạng kém phát triển kéo dài. Tuy nhiên, ở thời kỳ này, tại phương Tây đã có những quan điểm tư tưởng tiến bộ của các nhà tư tưởng, các nhà thần học góp ý bảo tồn và làm phong phú thêm những ý tưởng pháp quyền thời kỳ cổ đại. Những quan điểm tư tưởng ấy phải ẩn giấu  trong vỏ bọc tôn giáo. Có thể kể đến tư tưởng của Saint Augustin về việc quyền lực nhà nước phải được thực hiện như một quyền lực phục vụ; quan điểm của Thomas d’Aquin cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho mỗi người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt tới sự dồi dào về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, sự ra đời của chủ nghĩa chuyên chế cá nhân đã dẫn đến “cuộc cách mạng về pháp quyền tự nhiên” dưới thời Phục hưng, Khai sáng. Khi chủ nghĩa Khai sáng xuất hiện vào thế kỷ XVIII, khi đó, người ta chủ trương xây dựng nhà nước mạnh hơn. Điều này kích thích vua xứng đáng là vua, vua phải có học vấn. Bên cạnh đó, vua phải có pháp quan đoàn và nghị viện. Nhưng xét về mặt thực tiễn, theo Robes S. Summer: “văn kiện đầu tiên thể hiện tư tưởng Nhà nước pháp quyền phương Tây chính là Hiến chương Magna Carta vì ở đó đã có ý tưởng về một chính phủ chịu sự ràng buộc của pháp luật”2. Hiến chương Magna Carta (còn được gọi là bản Đại Hiến chương về các quyền tự do, được vua John của nước Anh công nhận và sau đó được vua Edward Đệ Nhất phát triển vào năm 1297) có thể là văn bản quan trọng đầu tiên của nước Anh có giá trị xác nhận tính pháp quyền chính thống của Nhà nước Anh. Hiến chương quy định: “Không một người tự do nào có thể bị bắt giữ hay bị tống giam, bị tước đoạt các quyền hoặc tài sản, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật hay bị buộc sống lưu vong, bị tước đoạt địa vị; nhà vua không có quyền sử dụng vũ lực đến chống lại người khác hay ra lệnh cho người khác sử dụng vũ lực trừ khi có phán quyết hợp pháp của những người ngang hàng hay phù hợp với pháp luật của vương quốc”3.

Sau thời kỳ Phục hưng ở phương Tây, trong những năm cuối cùng của thế kỷ XVIII, một trật tự mới của các sự vật đã thực sự bắt đầu. Sự phát triển của các yếu tố tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành các học thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản thông qua hệ thống các quan điểm, tư tưởng của các nhà chính trị, pháp lý… của thời kỳ này - thời kỳ cận đại.

Theo C. Mác, người thể hiện một cách kinh điển các quan điểm pháp lý xã hội tư sản đối lập với chế độ phong kiến là John Locke - nhà tư tưởng người Anh thế kỷ XVII. Thông qua những tác phẩm Hai bài giảng về lãnh đạo nhà nước, Kinh nghiệm về lý trí con người, Kinh nghiệm về lý trí con người, ông cho rằng một chế độ nhà nước có pháp luật phải phù hợp với lẽ tự nhiên, thừa nhận các quyền, tự do tự nhiên và không thể tước đoạt của con người. Bên cạnh đó, ông phát triển tư tưởng phân quyền của Aristotle, cụ thể: “quyền lực nhà nước phải được phân chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên hợp”4. Trong các quyền này, quyền lập pháp thuộc về nghị viện, hai quyền còn lại thuộc về vua, song vua không được lạm quyền, và quyền tư pháp là một phận trong quyền hành pháp với việc xét xử có sự tham gia của đại biểu nhân dân. Chế độ nhà nước theo quan điểm của ông thể hiện sự đối lập với chế độ chuyên chế.

Tiếp thu tư tưởng của John Locke, Charles-Louis de Secondat, thông qua các tác phẩm Những lá thư Ba Tư, Suy ngẫm về sự kỳ vĩ và sự cáo chung của người La Mã, đặc biệt là tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Montesquieu cho rằng: “nhà nước ra đời từ sự vận động và phát triển của xã hội loài người theo một trình độ nhất định. Con người sống theo bản năng sinh tồn vươn lên sống theo xã hội và theo pháp luật”. Bên cạnh đó, ông quan niệm trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền: thứ nhất, là quyền lập pháp giao cho nghị viện; thứ hai, là quyền thi hành những điều luật về công pháp (quyền hành pháp) giao cho chính phủ; thứ ba, là quyền thi hành những điều trong luật dân sự (quyền tư pháp) giao cho tòa án. Quan niệm phân quyền này thể hiện tính chất thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản đang lên nhưng còn non yếu và tầng lớp quý tộc phong kiến lạc hậu, phản động nhưng vẫn còn thế lực. Chính tư tưởng tam quyền phân lập của Montesquieu đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản.

Còn Jean Jacque Rousseau - nhà triết học Khai sáng, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị người Pháp đã đem đến cho học thuyết pháp quyền tư sản những quan điểm lý luận mới thông qua các tác phẩm Luận bàn về khoa học và nghệ thuật, Bàn về nguồn gốc và nguyên nhân của sự bất bình đẳng của con người, đặc biệt là tác phẩm Bàn về khế ước xã hội, hay là các nguyên lý pháp quyền chính trị. Theo đó, con người thoát khỏi trạng thái tự nhiên với tính năng tự hoàn thiện liên kết với nhau thành xã hội và nhà nước. Con người đến với xã hội và nhà nước không phải để mất đi quyền tự do vốn có của mình, mà để bảo vệ và phát triển quyền tự do đó. Quyền lực nhà nước là thuộc về toàn thể nhân dân. Nhân dân thực hiện chủ quyền của mình thông qua việc ủy quyền cho các đại biểu của mình trong bô máy nhà nước. Khế ước xã hội có thể hiểu là pháp luật và bộ máy nhà nước do nhân dân tạo ra. Khi nhà nước vi phạm “khế ước xã hội” đã thỏa thuận thì nhân dân có quyền thay thế bằng nhà nước mới.

2. Tư tưởng về quyền con người trước Mác

Sự ra đời và phát triển của tư tưởng pháp quyền không tách rời sự ra đời và phát triển của các quan niệm về quyền con người, bởi quyền con người chính là cốt lõi quan trọng nhất của việc hình thành và phát triển những tư tưởng về nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, những yếu tố nhất định về quyền con người trong tư tưởng cổ đại chỉ xuất hiện và tồn tại ở những quốc gia, khu vực, lãnh thổ mà ở đó nền văn minh tinh thần đã phát triển cao, đó chính là khu vực của các quốc gia thành bang như Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại (từ thế kỷ thứ VI – thế kỷ V TCN). Nền dân chủ của Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại lần đầu tiên đề cập khái niệm công dân. Tuy nhiên, công dân theo quan niệm lúc bấy giờ là thứ thuộc về nhà nước, là công cụ để thực hiện các nghĩa vụ cho nhà nước.

Mặc dù vậy, bản thân khái niệm “công dân” đã là một hiện thân của các quyền và tự do nhất định, nếu đặt nó trong bối cảnh của chế độ chiếm hữu nô lệ thì đây là một bước tiến lớn trong quá trình phát triển nền văn minh tinh thần của nhân loại. Tư tưởng về quyền con người đã trở thành một bộ phận hợp thành quan điểm triết học và quan điểm chính trị của các nhà thông thái thời kỳ cổ đại. Đó cũng chính là hạt nhân trong tư tưởng về giá trị cao nhất của pháp luật, được thể hiện trong các tác phẩm của Plato, Socratus, Aristotle… Theo đó, quyền con người không tách rời sự ngự trị của pháp luật trong xã hội, và đó chính là thành quả vĩ đại của tư tưởng phương Tây cổ đại về chế độ pháp quyền hướng tới tự do và nhân đạo.

Đến thời kỳ trung đại, từ góc độ tiến hóa lịch sử, sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và xác lập chế độ phong kiến là một bước tiến vĩ đại, bởi từ đây không còn tình trạng không được làm người của con người. Xã hội phong kiến ở phương Đông và phương Tây đều là  xã hội của lễ nghi, tập tục. Pháp luật ở thời kỳ này đã được coi trọng hơn thời kỳ cổ đại với chế độ chiếm hữu nô lệ ; pháp luật được tôn giáo hóa, thần thánh hóa và tiết chế hóa bằng các công thức, lễ nghĩa phong kiến hết sức cứng nhắc và chặt chẽ.

Trong chế độ phong kiến, con người chưa thực sự được cá thể hóa, mà mọi mặt đời sống của con người đều gắn với lễ, nghĩa, tôn ti, trật tự, phong tục, tập quán. Song, chính những yếu tố đó đã góp phần hình thành nên các khía cạnh của nhân cách. “Đặc điểm của thời kỳ trung cổ thể hiện ở chỗ, cá nhân con người nào cũng lệ thuộc vào một người chủ của mình và một bộ phận khá lớn của xã hội là những người tự do hoàn toàn về mặt pháp lý. Xã hội thời trung cổ là xã hội của sự đan xen giữa sự tự do và sự lệ thuộc của con người. Không ai tự do hoàn toàn và mỗi người lại có ông chủ của mình!”5.

Ở một phương diện khác, trong thời kỳ trung cổ đã bắt đầu hình thành các phường hội, các cộng đồng địa phương, cộng đồng nghề nghiệp (các hiệp sĩ, thương gia, thợ thủ công...). Những cộng đồng này một mặt làm lu mờ ý nghĩa và vị trí của cá nhân, mặt khác hình thành và củng cố ở các thành viên của mình tâm lý và ý thức bình đẳng, bình quyền trong khuôn khổ cộng đồng, đó chính là mầm mống của tư tưởng về bình đẳng và bình quyền mà về sau các cuộc cách mạng tư sản đã lấy làm khẩu hiệu hành động để hiệu triệu quần chúng.

Tuy nhiên, sự thiếu tự do của tầng lớp bị áp bức trong chế độ phân biệt đẳng cấp đến mức không thể chấp nhận được, cùng với sự hà khắc và tàn bạo của chế độ phong kiến trung cổ vẫn là đặc trưng chủ yếu của thời kỳ này. Thêm vào đó là sự thiếu vắng một hệ thống pháp luật thống nhất và sự nổi trội của những luật lệ của các lãnh chúa phong kiến. Mặc dù vậy, khi nói về địa vị của con người trong xã hội phong kiến trung cổ, vẫn có thể khẳng định sự tiến bộ có tính lịch sử so với thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Trong lòng xã hội ấy đã nảy sinh những tư tưởng mang dấu ấn của tư tưởng pháp quyền tiến bộ.

Trong giai đoạn trước Mác, tư tưởng chủ đạo của các cuộc cách mạng chống phong kiến là lấy quyền con người để đả phá sự chuyên chế hà khắc của chế độ phong kiến trung cổ vào thời kỳ suy vong của nó. Phương thức hữu hiệu nhất để giành được mục tiêu đó là xác lập một chế độ nhà nước với đầy đủ những cơ sở  về tôn trọng phẩm giá và bảo vệ quyền con người, đó là:

Thứ nhất, quyền lực nhà nước phải bị ràng buộc bởi pháp luật, bác bỏ mọi biểu hiện sử dụng quyền lực tùy tiện, vô pháp.

Thứ hai bảo vệ các quyền, tài sản, danh dự của mỗi người và mọi người.

Thứ ba, bảo vệ các quyền, tài sản, danh dự của mỗi người và mọi người.

Thứ tư, tự do của con người là tôn chỉ hành động của nhà nước, theo đó các quyền tự do là quyền tự nhiên và không thể tước đoạt của con người, là lá chắn để giới hạn quyền lực của nhà nước theo đúng ngưỡng của nó.

Theo John Locke: “mọi hình thái hòa bình của nhà nước phải lấy sự đồng thuận của nhân dân làm nền tảng”6. Bởi, quyền tự nhiên của con người có trước khi nhà nước được lập ra, nhưng khi đó chưa có pháp luật nên mọi người cần một khế ước chung làm công cụ bảo đảm cho tự do và tài sản của họ. Đến lượt nó, được lập ra bởi khế ước chung, nhà nước phải bảo đảm sự thượng tôn pháp luật - pháp luật lấy quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng của người và lấy sự phân chia quyền lực làm nền tảng hoạt động. Lý thuyết phân quyền của Montesquieu hướng tới việc xác lập một chính thể nhà nước mà ở đó không ai bị cưỡng bức làm những gì mà pháp luật không bắt buộc, hoặc không được làm những gì mà pháp luật không cấm.

3. Vận dụng những yếu tố về nhà nước pháp quyền trong các quan điểm trước Mác vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Để lựa chọn đúng con đường xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như trong công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong giai đoạn mới, cần căn cứ vào những phương diện thể hiện rõ thực tiễn cũng như lịch sử của Việt Nam.

Một là, về chính trị Việt Nam. Chế độ chính trị tại Việt Nam là chế độ dân chủ với một Đảng lãnh đạo - Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ đây  là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc và giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thời đại, giai cấp và dân tộc quy định. “Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam”7.

Hai là, về kinh tế Việt Nam. Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Ba là, về xã hội Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có truyền thống đoàn kết dân tộc lâu đời. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công, chiến thắng. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc... để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta cần đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”8.

Và những ý tưởng, quan điểm trước Mác đã thực sự đem lại những giá trị về lý luận và thực tiễn đối với quá trình phát triển nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại. Đó vừa là sản phẩm, vừa là nhân tố tích cực tác động vào quá trình phát triển lịch sử. Tuy nhiên, những quan điểm, tư tưởng đó chỉ chứa đựng những yếu tố về nhà nước pháp quyền, được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách phù hợp với thực tiễn để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thời kỳ cổ đại đã cho thấy rõ vị trí, vai trò của quyền lực và pháp luật. Hai yếu tố này chính là cơ sở để xây dựng hình mẫu quản trị quốc gia. Theo đó, mô hình tổng quan nhất là mô hình về cách thức tổ chức đời sống chính trị xã hội, sinh hoạt của quốc gia dựa trên các yêu cầu về tính hợp lý và tính công bằng của pháp luật, khả năng tự hạn chế giới hạn của quyền lực trên cơ sở pháp luật. Đến thời kỳ trung đại, những yếu tố về sự công bằng trong thực thi pháp luật đã được đề cao, đòi hỏi trình độ của người cầm quyền trong đời sống xã hội. Đến những quan điểm trước Mác, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quyền lực của nhân dân là thường xuyên và không có giới hạn; quyền lực nhà nước và người cầm quyền là không thường xuyên và có giới hạn. Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước cần phải được phân biệt, kiểm soát và hạn chế nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Từ những yếu tố đó, kết hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam đã xây dựng nhà nước có hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất; xác định rõ “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất”9; “Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân”10 ; hệ thống pháp luật được xây dựng, hoàn thiện với mục tiêu bảo đảm sự công bằng, công lý trong đời sống, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.


1. 2, 3, 4, 5, 6. Đào Trí Úc: Giáo trình Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 20, 31, 32, 38, 33, 50.

7. https://dangcongsan.vn/xay-dung-chinh-don-dang-nhung-viec-can-lam-ngay/tu-nghi-quyet-den-cuoc-song/vai-tro-lanh-dao-cua-dang-nhan-to-quyet-dinh-thang-loi-cua-cach-mang-viet-nam-534291.html.

8. https://bantuyengiao.cantho.gov.vn/vi/news/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/dai-doan-ket-toan-dan-toc-coi-nguon-suc-manh-dong-luc-chu-yeu-cua-cach-mang-viet-nam-1463.html.

9. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-nam-2013-215627.aspx.

10. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

ThS. NGUYỄN ĐỨC ANH

Học viện Chính trị khu vực II

Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/nhung-yeu-to-ve-nha-nuoc-phap-quyen-trong-cac-quan-diem-truoc-mac-duoc-dang-cong-san-viet-nam-van-dung-a8514.html