Tài chính công là một bộ phận hợp thành nền hành chính của quốc gia, là công cụ đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc tồn tại và hoạt động có hiệu quả của Nhà nước. Tài chính công huy động các nguồn lực từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, thành phần xã hội để hình thành nên nguồn tài chính quốc gia và phân bổ nguồn lực đó cho các chủ thể, đảm bảo sự hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện các chức năng quản lý, điều hành các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tài chính công đóng vai trò định hướng, hướng dẫn cho hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế, như việc hướng dẫn tiêu dùng, đầu tư qua các chính sách về thuế, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh, định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực...
Cải cách hoạt động tài chính công là xu hướng phổ biến của các quốc gia trên thế giới vì yêu cầu đảm bảo sự vận hành của nền hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trong giai đoạn 2011 - 2020, chương trình cải cách hành chính xác định 06 nhiệm vụ: cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cải cách tài chính công và hiện đại hóa hành chính. Trong đó, cải cách tài chính công là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần thúc đẩy, bổ trợ cho các nhiệm vụ khác, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Cải cách tài chính công là cải cách việc thu - chi ngân sách nhà nước (là bộ phận quan trọng nhất), doanh nghiệp nhà nước, tín dụng nhà nước, tài chính các cơ quan hành chính nhà nước, tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước… nhằm đảm bảo cho yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia.
Mục tiêu tổng quát về cải cách tài chính công theo Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 15/7/2021 của Chính phủ đã xác định “Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập gắn với nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra, nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thúc đẩy sự sáng tạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; kiểm soát tham nhũng tại các cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp”1.
Như vậy, yêu cầu cần đạt được trong thời gian tới là:
Một là, cải cách, đổi mới tài chính công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động tốt hơn, có tính chuyên nghiệp hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động của tài chính công không chỉ có tác dụng cung cấp nguồn lực tài chính cho bộ máy công quyền hoạt động, mà điều quan trọng là phải thông qua hoạt động tài chính công để có tác động mạnh mẽ đến việc điều chỉnh tổ chức và tính hiệu quả của hoạt động bộ máy. Vì vậy, gắn việc cải cách đổi mới tài chính công với bộ máy trong sạch, vững mạnh được coi là một trong những mục tiêu quan trọng của cải cách, đổi mới tài chính công.
Hai là, hầu hết việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đều do bộ máy công quyền từ trung ương đến địa phương đảm nhận. Vấn đề đặt ra là việc cải cách, đổi mới hoạt động tài chính công phải hướng vào mục tiêu bảo đảm công bằng và hiệu quả. Nội dung đổi mới, cải cách tài chính công là đổi mới thu - chi ngân sách nhà nước, đổi mới hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước, đổi mới tài chính của các cơ quan công quyền, các đơn vị sự nghiệp công lập...
Giải pháp tiếp tục thực hiện cải cách tài chính công trong giai đoạn hiện nay
Một là, tiếp tục đổi mới chính sách động viên nguồn lực tài chính công theo hướng bền vững
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thu đi đôi với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước, hướng đến xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết, hợp lý của ngân sách nhà nước. Mở rộng cơ sở thuế, áp dụng mức thuế suất hợp lý, đảm bảo công bằng, bình đẳng về thuế giữa các đối tượng nộp thuế, đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế, tạo môi trường sản xuất - kinh doanh thuận lợi và thúc đẩy đầu tư, đảm bảo lợi ích quốc gia về quyền thu thuế.
Thực hiện đơn giản hóa hệ thống chính sách ưu đãi thuế. Chính sách ưu đãi thuế cần được áp dụng ổn định trong trung và dài hạn, hạn chế thay đổi thường xuyên làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất - kinh doanh cũng như chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, chống thất thoát, gian lận thuế; tăng cường hiệu quả công tác chống chuyển giá.
Hai là, hoàn thiện thể chế về quản lý ngân sách nhà nước, tăng cường hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính ngân sách nhà nước
Đổi mới, xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý ngân sách nhà nước nhằm tăng cường hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực ngân sách nhà nước với quá trình tái cơ cấu kinh tế. Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với thúc đẩy kêu gọi hợp tác theo hình thức hợp tác công tư, thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân để tăng nguồn lực đầu tư toàn xã hội. Tạo cơ chế tài chính để các địa phương thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy hoạch, tiềm lực và đặc điểm của từng địa phương.
Đổi mới phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, nguồn thu, nhiệm vụ chi nhằm mục tiêu đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; phương thức phân cấp nguồn thu giữa trung ương và địa phương đối với các sắc thuế chủ yếu, đảm bảo phù hợp thông lệ quốc tế, điều kiện thực tế và yêu cầu phát triển của đất nước.
Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 quy định về nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước, theo đó: “Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất, tập trung dân chủ, hiệu quả, tiết kiệm, công khai, minh bạch, công bằng; có phân công, phân cấp quản lý; gắn quyền hạn với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp”2. Việc tăng cường phân cấp tài chính để Chính phủ tập trung vào quản lý tài chính công ở cấp quốc gia, quyết định các chính sách tài chính công phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của quốc gia. Tăng cường sự tự chủ của chính quyền địa phương trong quyết định và quản lý các nguồn thu - chi của địa phương. Với nguồn lực được phân cấp, chính quyền địa phương có thể chủ động thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn theo những ưu tiên của địa phương, bảo đảm cung ứng các dịch vụ công phù hợp với nhu cầu và mong muốn của nhân dân địa phương.
Ba là, tiếp tục cơ cấu lại nợ công, đảm bảo an ninh, an toàn tài chính công
Tiếp tục thực hiện theo nguyên tắc vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Tập trung huy động tối đa đối với nguồn vốn vay ODA còn lại, hợp lý đối với nguồn vay ưu đãi nước ngoài và thận trọng đối với các nguồn vay thương mại nước ngoài. Tăng cường khả năng chủ động tiếp cận, tham gia thị trường vốn quốc tế. Tiếp tục thực hiện việc cơ cấu lại nợ công theo hướng bền vững. Đẩy mạnh tái cơ cấu danh mục nợ Chính phủ, tăng cường quản trị rủi ro nợ công. Đảm bảo cân đối, bố trí đầy đủ nguồn để trả nợ đúng hạn, ưu tiên bố trí nguồn tăng thu, tiết kiệm chi để trả nợ nhằm giảm dư nợ Chính phủ, nợ công...
Bốn là, đẩy mạnh đổi mới quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và đổi mới cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
Đối với doanh nghiệp nhà nước: Đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước. Tập trung nguồn lực đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp nhà nước có vị trí quan trọng, gắn với đảm bảo an ninh, quốc phòng. Gắn trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhất là người đứng đầu để đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành. Nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ các chính sách liên quan đến việc đổi mới cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập; hoàn thành việc giao quyền tự chủ toàn diện cho khu vực sự nghiệp công trên cơ sở thực hiện tính đúng, tính đủ giá dịch vụ công theo lộ trình, đảm bảo công khai, minh bạch; chuyển một số loại phí, lệ phí sang giá dịch vụ, đồng thời thực hiện chính sách ngân sách nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chuyển đổi mạnh cơ chế cấp kinh phí theo dự toán sang cơ chế đặt hàng, đấu thầu các dịch vụ sự nghiệp công nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa dịch vụ sự nghiệp công…
Năm là, tăng cường tính minh bạch tài chính và trách nhiệm giải trình trong quản lý và sử dụng nguồn lực công
Tăng cường tính minh bạch và công khai về ngân sách là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tài chính công. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã bổ sung các nội dung làm rõ tính minh bạch ngân sách. Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 quy định: “Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp”3.
Trên cơ sở Luật Ngân sách nhà nước 2015, Bộ Tài chính đã có nhiều văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn việc thực hiện công khai minh bạch trong quản lý tài chính, ngân sách nhà nước như: Thông tư số 343/2016/TT/BTC về hướng dẫn công khai minh bạch với các cấp ngân sách, Thông tư số 61/2017/TT-BTC và Thông tư số 90/2018/TT-BTC về hướng dẫn công khai minh bạch ngân sách đối với các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định pháp lý liên quan trực tiếp đến minh bạch ngân sách, bao gồm các quy định về công khai ngân sách của cơ quan Đảng, các chương trình, dự án đầu tư cơ bản; trách nhiệm giải trình và các chế tài đối với các đơn vị không thực hiện công khai ngân sách; hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm và phương thức kiểm tra, giám sát minh bạch ngân sách, đảm bảo các cơ chế, chính sách về giám sát cộng đồng và dân chủ cơ sở được ban hành rõ ràng, đầy đủ, dễ hiểu và dễ thực hiện. Ngoài ra, cần quy định rõ về công tác đánh giá và trách nhiệm giải trình các số liệu công khai của các bên liên quan; đưa ra các quy định về việc kiểm tra, thanh tra, xử lý kết quả khi vi phạm đối với các đối tượng có liên quan trong việc thực hiện chế độ công khai ngân sách.
Yêu cầu minh bạch tài chính và trách nhiệm giải trình đòi hỏi các cấp chính quyền cũng như từng cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước phải củng cố lại hoạt động của mình, thực hiện công khai tài chính, kịp thời phát hiện, ngăn chặn tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng trong sử dụng nguồn lực công.
Cần có quy định rõ ràng trách nhiệm vật chất của những người đứng đầu cơ quan chính quyền nhà nước các cấp, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức sử dụng nhân sách nhà nước trước kết quả quản lý tài chính công thuộc thẩm quyền trách nhiệm của mình.
Sáu là, đẩy mạnh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính công
Trong thời gian qua, cùng với quá trình đổi mới và cải cách về thể chế, quá trình hiện đại hóa quản lý tài chính công gắn với ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam đã được tăng cường trên nhiều phương diện. Nhiều dự án công nghệ thông tin quan trọng đã xây dựng và triển khai có hiệu quả, như Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc; Hệ thống thông tin quản lý nợ; Hệ thống quản lý thuế tập trung; Hệ thống thông quan tự động và Cơ chế một cửa quốc gia; các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài sản công; quản lý thị trường chứng khoán… Việc triển khai các dự án ứng dụng công nghệ thông tin này đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý tài chính - ngân sách, thúc đẩy cải cách hành chính, giảm chi phí tuân thủ thực hiện thủ tục hành chính cho của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức liên quan. Thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, công khai, minh bạch về tài chính - ngân sách cũng từng bước được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thúc đẩy trách nhiệm giải trình. Đồng thời, việc triển khai các dự án ứng dụng công nghệ thông tin thời gian qua còn tạo ra các cơ hội để thực hiện cải cách quản lý tài chính công.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được nói trên chỉ là bước đầu. Công nghệ thông tin trong ngành Tài chính cần tiếp tục được đẩy mạnh để bao quát được các yêu cầu đặt ra trong quá trình cải cách, hiện đại hóa công tác quản lý tài chính công của Việt Nam thời gian tới. Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Tài chính cần tiếp tục đẩy mạnh trên nhiều phương diện, trong đó có việc xây dựng và áp dụng Hệ thống thông tin quản lý tài chính Chính phủ (GFMIS) như thông lệ của nhiều nước trên thế giới. Yêu cầu đặt ra đối với việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính công ở Việt Nam thời gian tới là phải xử lý cho được những hạn chế: tính liên kết, tích hợp trong các hệ thống thông tin toàn ngành chưa cao; hệ thống cơ sở dữ liệu tài chính còn phân tán; chưa hình thành được một hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung để đáp ứng có hiệu quả các yêu cầu về số liệu, thông tin cho quá trình quản lý, điều hành cũng như cho công tác phân tích, dự báo, đánh giá tác động chính sách; vai trò hỗ trợ của công nghệ thông tin đối với yêu cầu tăng cường công khai, minh bạch và thúc đẩy trách nhiệm giải trình trên một số phương diện vẫn còn hạn chế. Đồng thời, yêu cầu áp dụng công nghệ thông tin phải chủ động đáp ứng được các yêu cầu mới đặt ra trong tiến trình cải cách nền tài chính công, qua đó phát huy tối đa hiệu quả của công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành nền tài chính quốc gia, phù hợp với xu hướng về cải cách tài chính công và ứng dụng công nghệ thông tin trên thế giới4.
Bảy là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính công
Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, kiểm tra sau thông quan, công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, tập trung vào những doanh nghiệp, lĩnh vực, mặt hàng trọng điểm có độ rủi ro cao, hoạt động tài chính, ngân hàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh trên nền tảng số,... Nâng tỷ lệ doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra thuế; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp kê khai không đúng, gian lận thuế, trốn thuế, chuyển giá; kiểm soát chặt chẽ giá tính thuế, nhất là giá tính thuế trong lĩnh vực hải quan; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ trước và sau hoàn thuế, đảm bảo kịp thời, đúng đối tượng, đúng quy định của pháp luật, hiệu quả cho doanh nghiệp, không để việc hoàn thuế kéo dài... Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, tái cơ cấu theo quy định nhằm đánh giá tình hình tài chính, tình hình sử dụng, bảo toàn và tăng trưởng vốn.
Về quản lý chi ngân sách nhà nước, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và thực hiện công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách nhà nước, đảm bảo chi ngân sách nhà nước theo dự toán, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi và quy định pháp luật. Đồng thời, đẩy mạnh việc thực hiện các quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Xử lý nghiêm về tài chính theo quy định đối với các sai phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước đã được cơ quan kiểm toán, thanh tra phát hiện, kiến nghị.
Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nội bộ, công khai, minh bạch; nâng cao trách nhiệm giải trình, cá thể hóa trách nhiệm người đứng đầu trong việc quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính - ngân sách nhà nước, đầu tư công, tài sản công. Đồng thời, tổ chức thực hiện kiểm điểm làm rõ trách nhiệm, xử lý nghiêm, kịp thời các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính - ngân sách nhà nước, đầu tư công, tài sản công; chậm thực hiện các kiến nghị, kết luận của cơ quan kiểm toán, thanh tra đối với các vi phạm xảy ra thuộc trách nhiệm được giao quản lý.
Cần phát huy vai trò giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí và người dân đối với việc quản lý và sử dụng tài chính công.
Tám là, tiếp tục tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức thực hành tiết kiệm, sử dụng hợp lý tài sản công để tránh lãng phí
Để thực hành tiết kiệm, hiện nay có nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện khoán một số hạng mục chi từ ngân sách như quỹ lương, chi văn phòng phẩm… Việc thực hiện khoán chi này có tác dụng khuyến khích các cơ quan, tổ chức sắp xếp nhân sự và có kế hoạch sử dụng ngân sách nhà nước hợp lý có tác dụng tiết kiệm ngân sách và mạng lại lợi ích cho công chức, viên chức, người lao động. Tuy nhiên, giải pháp căn bản trong việc thực hành tiết kiệm trong cơ quan, tổ chức phải là ý thức tự giác của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Việc này phụ thuộc nhiều vào việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục trong nội bộ.
Việc tuyên truyền, giáo dục vận động đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài sản công là một trong những yêu cầu giáo dục đạo đức công vụ. Việc giáo dục này phải thực hiện thường xuyên trong các cơ quan tổ chức để hình thành nếp sống, thói quen của công chức, viên chức trong môi trường công vụ.
1. Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030.
2, 3. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
4. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính: Cải cách tài chính công của Việt Nam đến năm 2020 và vai trò của hệ thống thông tin quản lý tài chính Chính phủ (GFMIS).
Đinh Thị Hương (tổng hợp)
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/mot-so-giai-phap-tiep-tuc-thuc-hien-cai-cach-tai-chinh-cong-giai-doan-2021-2030-a8451.html