1. Khái niệm về dịch vụ logistics
Thập niên 1970 - 1980 các công ty cung cấp dịch vụ logistics ngày càng xuất hiện nhiều hơn và mô hình “Just-in-time” được người Nhật phát kiến; Những năm 1990, thì logistics đã đánh dấu trên thị trường thương mại qua việc ứng dụng các mô hình QR (Quick Response – đáp ứng nhanh), ECR (Efficient Consumer Response – đáp ứng người tiêu dùng hiệu năng). Cuối thế kỷ 20, logisics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ.
Trải qua quá trình phát triển, logistics đã được chuyên môn hóa và phát triển trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics trên thế giới và được xây dựng trên căn cứ ngành nghề và mục đích nghiên cứu về dịch vụ logistics, tuy nhiên, có một số khái niệm tiêu biểu sau:
Liên hợp quốc (Khóa đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và quản lý logistics, Đại học ngoại thương, tháng 10/2002): Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng.
Theo từ điển Oxford thì logistics trước hết là “Khoa học của sự di chuyển, cung ứng và duy trì các lực lượng quân đội ở các chiến trường”.
Theo Hội đồng Quản trị Logistics của Mỹ (CLM - Council of Logistics Management) “Quản trị logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ nguyên vật liệu, hàng hoá tồn kho trong quá trình sản xuất sản phẩm cùng dòng thông tin tương ứng từ điểm đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu của khách hàng”.
Theo quan điểm “5 right” thì “Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm, đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm”.
Theo quy định tại Điều 233 của Luật thương mại Việt Nam 2005: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi mã ký hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Qua các quan niệm ở trên có thể chia khái niệm dịch vụ logistics thành hai nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương mại 2005, coi logistics gần tương tự với giao nhận hàng hoá. Tuy nhiên trong đó có tính mở, thể hiện trong đoạn "hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá". Theo nhóm này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Theo đó, dịch vụ logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (VTĐPT).
Thứ hai, nhóm định nghĩa dịch vụ logistics theo phạm vi rộng, có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hoá tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hoá và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này về dịch vụ logistics góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tư vấn quản lý... với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ "trọn gói" cho các nhà sản xuất. Đây là một công việc mang tính chuyên môn hoá cao. Ví dụ, khi một nhà cung cấp dịch vụ logistics cho một nhà sản xuất thép, anh ta sẽ chịu trách nhiệm cân đối sản lượng của nhà máy và lượng hàng tồn kho để nhập phôi thép, tư vấn cho doanh nghiệp về chu trình sản xuất, kỹ năng quản lý và lập kênh phân phối, các chương trình marketing, xúc tiến bán hàng để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng.
Dù có rất nhiều khái niệm và cách tiếp cận khác nhau về logistics nhưng có thể rút ra một số điểm chung sau đây:
Thứ nhất, logistics là quá trình mang tính hệ thống, chặt chẽ và liên tục từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ hai, logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ, mà là một chuỗi các hoạt động liên tục từ hoạch định quản lý thực hiện và kiểm tra dòng chảy của hàng hóa, thông tin, vốn … trong suốt quá trình từ đầu vào tới đầu ra của sản phẩm. Người ta không tập trung vào một công đoạn nhất định mà tiếp cận với cả một quá trình, chấp nhận chi phí cao ở công đoạn này nhưng tổng chi phí có khuynh hướng giảm. Trong quá trình này, logistics gồm 2 bộ phận chính là logistics trong sản xuất và logistics bên ngoài sản xuất.
Thứ ba, logistics là quá trình hoạch định và kiểm soát dòng chu chuyển và lưu kho bãi của hàng hoá và dịch vụ từ điểm đầu tiên tới khách hàng và thoả mãn khách hàng. Logistics bao gồm cả các chu chuyển đi ra, đi vào, bên ngoài và bên trong của cả nguyên vật liệu thô và thành phẩm.
Thứ tư, logistics không chỉ liên quan đến nguyên nhiên vật liệu mà còn liên quan tới tất cả nguồn tài nguyên/các yếu tố đầu vào cần thiết để tạo nên sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Nguồn tài nguyên không chỉ bao gồm: vật tư, vốn, nhân lực mà còn bao hàm cả dịch vụ, thông tin, bí quyết công nghệ…
Thứ năm, logistics bao trùm cả hai cấp độ hoạch định và tổ chức. Cấp độ thứ nhất các vấn đề được đặt ra là vị trí: phải lấy nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ… Ở đâu? Khi nào? Vận chuyển đi đâu? Cấp độ thứ hai quan tâm tới vận chuyển và lưu trữ: làm thế nào để đưa được nguồn tài nguyên/các yếu tố đầu vào từ điểm đầu tiên đến điểm cuối dây chuyền cung ứng?
Thứ sáu, logistics là quá trình tối ưu hoá luồng vận động vật chất và thông tin về vị trí, thời gian, chi phí, yêu cầu của khách hàng và hướng tới tối ưu hoá lợi nhuận.
2. Phân loại dịch vụ logistics
2.1. Theo phạm vi và mức độ quan trọng
Theo phạm vi và mức độ quan trọng thì logistics được phân chia thành 4 loại: logistics kinh doanh, logistics quân đội, logistics sự kiện, dịch vụ logistics.
Logistics kinh doanh (Business logistics): là một phần của quá trình chuỗi cung ứng, nhằm hoạch định thực thi và kiểm soát một cách có hiệu quả và hiệu lực các dòng vận động và dự trữ sản phẩm, dịch vụ và thông tin có liên quan từ điểm khởi đầu đến điểm tiêu dùng nhằm thỏa mãn những yêu cầu của khách hàng.
Logistics quân đội (Military logistics) là việc thiết kế và phối hợp các phương tiện hỗ trợ và các thiết bị cho các chiến dịch và trận đánh của lực lượng quân đội. Đảm bảo sự sẵn sàng, chính xác và hiệu quả cho hoạt động này.
Logistics sự kiện (Event logistics) là tập hợp các hoạt động, các phương tiện vật chất kỹ thuật và con người cần thiết để tổ chức, sắp xếp lịch trình, nhằm triển khai các nguồn lực cho một sự kiện được diễn ra hiệu quả và kết thúc tốt đẹp.
Dịch vụ logistics (service logistics) bao gồm các hoạt động thu nhận, lập chương trình và quản trị các điều kiện cơ sở vật chất, tài sản, con người và vật liệu nhằm hỗ trợ và duy trì cho các quá trình dịch vụ hoặc các hoạt động kinh doanh khác.
2.2. Theo vị trí các bên tham gia
Căn cứ vào vị trí các bên tham gia, logistics được phân thành:
Logistics bên thứ nhất (1 PL - First Party Logistics): Người chủ sở hữu hàng hoá tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân. Theo hình thức này, chủ hàng phải đầu tư vào phương tiện vận tải, kho chứa hàng, hệ thống thông tin, nhân công… để quản lý và vận hành hoạt động logistics.
Logistics bên thứ hai (2 PL - Second Party Logistics): Người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho một hoạt động đơn lẻ trong chuỗi các hoạt động logistics (vận tải, kho bãi, thủ tục Hải quan, thanh toán…) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, chưa tích hợp hoạt động logistics.
Logistics bên thứ ba (3 PL - Third Party Logistics): 3 PL là người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho từng bộ phận chức năng. Do đó, 3 PL bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hoá, xử lý thông tin… và có tính tích hợp vào dây chuyền cung ứng của khách hàng.
Logistics bên thứ tư (4 PL - Fourth Party Logistics): 4 PL là người tích hợp (integrator) - người hợp nhất, gắn kết các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi logistics. 4 PL hướng đến quản trị cả quá trình logistics, như nhận hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất, nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
2.3. Theo quá trình nghiệp vụ
Căn cứ vào quá trình mua hàng, logistics được chia làm 3 quá trình: mua hàng, hỗ trợ sản xuất, phân phối đến thị trường.
Quá trình mua hàng (Procurement logistics) là hoạt động liên quan đến việc tạo ra sản phẩm và nguyên vật liệu từ nhà cung cấp bên ngoài.
Quá trình hỗ trợ sản xuất (Manufacturing support) tập trung vào hoạt động quản trị dòng dự trữ một cách hiệu quả giữa các bước trong quá trình sản xuất.
Quá trình phân phối đến thị trường (logistics distribution) liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ khách hàng, hỗ trợ tạo doanh thu.
2.4. Theo hướng vận động vật chất
Theo hướng vận động vật chất, logistics được chia thành:
Logistics đầu vào (Inbound logistics) là toàn bộ các hoạt động hỗ trợ dòng nguyên liệu đầu vào từ nguồn cung cấp trực tiếp tới công ty.
Logistics đầu ra (Outbound logistics) là toàn bộ các hoạt động hỗ trợ dòng sản phẩm đầu ra cho tới tay khách hàng.
Logistics ngược (logistics reverse) bao gồm các dòng sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, dòng chu chuyển ngược của bao bì đi ngược chiều trong kênh logistics.
PGS, TS. TRẦN MINH TÂM
Viện Kinh tế Việt Nam
Link nội dung: https://chinhtrivaphattrien.vn/mot-so-van-de-ly-luan-ve-dich-vu-logistics-a8226.html